Có một buổi sáng nắng nhẹ, tôi được đứng giữa khu vườn rộng mênh mông, hoa nhãn lao xao, hương bát ngát bay. Trước mặt tôi là ba ngôi mộ cổ, thực tế là ba bia đá xanh, cao khoảng một mét, khắc chữ Hán, xếp song song, trên nền đất hơi phẳng, ẩm, lưa thưa cỏ xanh. Phía mặt sau một bia đá, có khắc chữ Việt. Tôi đọc được tên ba người con trai đã đứng ra lập bia cho cha mẹ. Bia ghi chú rằng người anh trai và em trai đã mất. Vậy là người còn lại đã đứng ra lập bia.
Tôi không nén được cảm xúc. Tên người thứ nhất là ông Nội tôi, còn lại là tên hai ông chú. Giờ đây, tất cả đã thành người của muôn năm cũ! Người mất sau cùng cách đây 40 năm là ông chú lập bia Hồ Quang Mân. Đó là ông chú năm. Hai ông mất sớm là ông Nội tôi thứ tư và ông còn lại thứ sáu. Trên giấy tờ ông Nội tôi để lại, không còn anh em nào khác.
Khi còn bé, tôi chỉ biết ông chú năm, đã từng nắm tay ông, chạy theo ông trên đường làng, từ chợ Cái Răng, qua cầu Móng, rồi đi về Rau Răm, nơi ông ở. Con đường dài khoảng ba cây số. Vậy mà lúc nào ông cũng đi bộ với chiêc gậy trúc, bộ bà ba đen và nón nỉ nâu đội đầu. Người cao ốm, một búi tóc củ hành và chòm râu bạc, ông có dáng vẻ một tiên ông trong cổ tích! Ông hay hỏi thăm chị em chúng tôi chuyện học hành và kể chuyện về Ba tôi và chú năm Tri, những người chiến sĩ đang ở trong bưng.
- Bưng là ở đâu ông năm?
- Là ở trong rừng, xa lắm. (Và lúc nào ông cũng dặn thêm một câu: Cháu không được nói cho ai biết nghe không!)
Nhà Nội tôi ở tại chợ Cái Răng. Mỗi tuần gần như thế, ông năm chống gậy ra thăm, ăn bửa cơm, nằm nghỉ một lát, chiều mát, một mình, ông chống gậy về nhà.
Một năm nước lớn, ngập cả đường làng, đường lộ, ông quá giang xuồng chở rau trái, đi ra đi về. Xuồng cập bến sông còn phải bước qua ván nhỏ bắc tạm, để lên bờ. Lần đó, ông trợt ván, té xuống sông. Được cứu cấp nhưng cũng làm ông yếu đi, bịnh già kéo đến. Không bao lâu ông mất. Khi ấy, tôi còn nhỏ quá, không biết rằng “tiên ông” này là chứng nhân sau cùng, mới có thể giúp chúng tôi tìm về quá khứ, nguồn cội!
Nay đứng trước ba ngôi mộ của tiền nhân, và sau khi đọc được tên, biết được đây là mộ của ông bà Cố Hồ Phú Hữu. Và còn ngôi mộ thứ ba tên Phạm Thị Mai, có thể là của mẹ ông Cố hoặc mẹ bà Cố, do vị trí đặt bia mà suy ra vậy thôi.
Cũng do duyên cả thôi. Tình cờ, một người chị họ, đưa tôi đến nơi này. Đây là đất của ông bà Tổ, đã cho một người cháu. Nhưng người này rày đây mai đó, nên có nhờ một nông dân nghèo trong thôn ấp cất chòi để giữ đất. Lâu dần, không thấy người cháu ấy về nữa. Người giữ đất vẫn trung thành, hằng năm đắp đất cho ba ngôi mộ và trồng trọt chung quanh để sống. Sau chiến tranh, một mình ông chú năm trở về dựng bia cho ba ngôi mộ.
Khu đất hoang sơ khi xưa giờ một phần là ruộng, một phần là vườn nhãn. Và căn chòi ngày xưa giờ là ngôi nhà gạch khang trang. Người chủ căn nhà này tiếp chúng tôi ân cần, kể chuyện xưa chuyện nay:
- Ông bà ở đây với chúng tôi mấy chục năm rồi, phù hộ chúng tôi mạnh khỏe, làm ăn khá. Các cô cứ để ông bà ở đây, thỉnh thoảng nhớ ghé thăm. Xây mộ xong, chúng tôi sẽ chăm sóc.
Ngày Ba tôi còn ở bên chúng tôi, tôi chưa nghe Ba nhắc những ngôi mộ này. Nếu bây giờ Ba tôi biết được là chị em tôi đã tìm thấy và xây xong mộ cho ông bà, chắc Ba vui lắm. Bởi trong cuốn sổ tay ghi gia phả, Ba tôi có ghi tên ông bà Cố, nhờ thế, chúng tôi không thể nhầm lẫn được. Và đây là những gì tôi đã thưa trình với Ba tôi:
Thưa Ba, con vừa đến nơi,
Mà Người xưa đã về trời từ lâu!
Còn đây - ba nắm đất nâu,
Còn đây - bia đá - dãi dầu nắng mưa.
Trăm năm . . . Người đã hay chưa?
Rêu phong dấu chữ - cỏ thưa lấp đầy!
Mặt trời vẫn mọc đằng tây,
Người đi qua giấc mộng dài thiên thu.
Êm đềm từng câu hát ru,
Còn nghe gió thoảng vi vu gọi Người!
Bóng ai giờ khuất xa rồi,
Hay anh linh vẫn về nơi cội nguồn?
Vỗ về - răn dạy - cháu con,
Nghìn năm cùng với nước non trường tồn.
***
Những nhân vật của tôi được nhắc tới trong bài này, giờ đã về với cõi nhớ! Mượn lời của một nhà thơ, để xin Tổ tiên lời tạ lỗi: Người của muôn năm cũ, Hồn ở đâu bây giờ?
Hồ Việt Kim Chi (10-3-2010)
|