Trang chủ > Các nhân vật lịch sử giai đoạn đầu chống Pháp thuộc họ Đặng ở Bàu Sim và họ Võ ở Bà Giã

Các nhân vật lịch sử giai đoạn đầu chống Pháp thuộc họ Đặng ở Bàu Sim và họ Võ ở Bà Giã

29/07/2025 10:11:45

Đề cương báo cáo Tọa đàm Võ Văn Nhâm của nhà nghiên cứu Võ Ngọc An (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP.HCM; Phó Chủ tịch Hội đồng Viện; Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Dòng họ).

Ông Võ Ngọc An

I. Bối cảnh lịch sử giai đoạn đầu chống Pháp, sau khi triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước nhường 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp (1862) và cuộc kháng chiến của Trương Định, Trương Quyền

 A. Đại quân Kỳ Hòa thất thủ ngày 25/2/1861

Cuộc kháng chiến của nhân dân bùng khởi, bắt đầu từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương, Hồ Huân Nghiệp... đến người sau cùng là Phan Công Hớn, bị xử tử ngày 30/3/1886.

 + Báo cáo của Cơ mật viện Huế (9/11/1863), Phạm Tiến, một trong những người đứng đầu phong trào vũ trang chống Pháp viết: “Chúng tôi, cùng với Trương Định bàn định với nhau, Bùi Tấn và Cù Khắc Kiệm chuyên coi công việc của huyện Tân Thạnh, cử nhân Lý Duy Phiên, Hà Mậu Đức, tú tài Nguyễn Văn Trung chuyên coi công việc của hai huyện Tân An và Cửu An;  tú tài Huỳnh Văn Đạt và Bùi Văn Lý chuyên biện việc huyện Tân Long, tri huyện Đặng Văn Duy chuyên biện phủ huyện Tân Ninh và Quảng Hóa; bát phẩm Lê Quang Bính, cử nhân Nguyễn Tánh Thiện chuyên biện việc Tân Hòa;  thân sĩ Hồ Huân Nghiệp, tú tài Mai Phương Mỹ và Nguyễn Duy Thân chuyên sự việc phủ huyện Tân Bình, Bình Dương". Báo cáo viết tiếp: “Còn các võ viên, cử nhân, tú tài, hương mục bình dân cùng với một số người Minh Hương thì chia từng chi, đặt toán đi đắp lũy, kể từ nửa huyện Phước Lộc, cùng với các hạt Bình Dương, Bình Long, Tân Long làm chính tôi quản đốc. Còn lại nửa dưới huyện Phước Lộc, với huyện Tân Thanh, Cửu An, Tân Hòa thì do Trương Định thống quân, ai nấy đều theo địa hạt phòng tiêu, gặp khi hữu sự thì thông báo cho nhau để cùng tiếp ứng”.

+ Vai trò quan trọng của nhân dân, mà chủ yếu là nông dân, với 5.500 nông dân Hóc Môn, Củ Chi do Trần Thiện Chánh và Lê Huy quản lý, kéo về tiếp ứng Sài Gòn sau khi Đại đồn thất thủ.

 + Thời điểm này, phía Pháp do các tên sau đây tham gia: các đô đốc Charner, Bonard, rồi La Grandiere, các sĩ quan: tướng Chaumont, tổng chỉ huy tấn công Tân Hòa, 1863; Rigault de Genouilly, Marchaisse, đại úy Hermandy... 

B. Trương Quyền và các trận đánh trên đất Tây Ninh - Gia Định

 + Là con trưởng của Trương Định. Khi cha hy sinh (đêm 18 rạng 19/8/1864), Trương Quyền chỉ huy một đạo quân lớn, lấy đất Tây Ninh làm căn cứ.

 + Pháp tấn công vào căn cứ Giao Long năm 1865, Phó tướng Lê Quang Quyền tử trận. Phan Chính hoảng hốt bỏ chạy. Lực lượng còn lại rút quân về Tây Ninh dưới cờ Trương Quyền.

 + Bài học kinh nghiệm của Trương Quyền: Không lấy Tân Hòa mà lấy Tây Ninh làm căn cứ địa, địa điểm hiểm trở “tiến khả năng dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, có thể tấn công xuống Gia Định, đánh ra Biên Hòa hoặc tỏa xuống châu thổ Cửu Long; nghĩa quân có thể liên lạc được với Bình Thuận, Tây Nguyên. Tây Ninh có thể thực hiện việc đoàn kết Kinh - Thượng. Ông đã vận động được đồng bào Stiêng, Mơ Nông, lập căn cứ Xrây Meang ở Thủ Dầu Một. Tại khu căn cứ Tây Ninh, Trương Quyền bắt liên lạc với nghĩa quân Khmer của nhà sư hoàng gia yêu nước Pu Kom Pô.

 + Địa bàn hoạt động, từ đó trải dài từ Tây Ninh - Trảng Bàng - Củ Chi - Hóc Môn.

 C. Trận đánh của Trương Quyền (1866 - 1867)

 + Trận đánh vào Tây Ninh: 6 giờ 30 ngày 8/6/1866 giả vờ tiến lên phía Bắc về Bình Thuận, một cánh do Trương Quyền chỉ huy đánh ập vào Tây Ninh, có quân của Po-Cum-Pao phối hợp. Chiến thắng toàn diện, quân đội Pháp khiếp đảm, quân kháng chiến phấn chấn.

 + Ngày 14/6/1866, quân Pháp tiếp viện từ Sài Gòn lên. Trận Truông Mít, Cầu Khởi nổ ra, quân Pháp phải chựng lại. Tiếp theo trận Rạch Vinh, cách Tây Ninh 40km. Ta nghi binh, Pháp tấn công bất ngờ, 5 giờ chiều ngày 14/6/1866, tên quan năm Marchaise bị giết. 

 + Bảy ngày sau, ngày 21/6/1866, tổ chức những trận đánh chớp nhoáng, bất ngờ vào khu vực an toàn của địch ở Gia Định.

 + Đêm 24/6/1866, đánh đồn Thuận Kiều - (khác với trận Nguyễn Ảnh Thủ chiến trận này vào ngày 29/6/1871), sau khi phá Bưu điện, quân ta xung kích, vượt tường, địch bị giết, bỏ đồn chạy. Ta cho xe bò chở vũ khí lấy được căn cứ.

 + Ngày 24/6/1866, đánh chớp nhoáng Trảng Bàng. Các nhóm nghĩa quân khác phối hợp hoạt động mạnh ở toàn Gia Định, Chợ Lớn.

 + Trương Quyền cho đóng quân ở cầu An Hạ - bưng Trùm Lạc - Bàu Sim - Bà Giã. Pháp định mở cuộc tấn công lớn. Trương Quyền chia lực lượng làm 3 cánh quân, cánh xuống Bình Điền, cánh vượt sông Bến Nghé, cánh do Trương Quyền trực tiếp chỉ huy kéo ngược lên Trảng Bàng, an toàn.

 Trong khi ta đang thắng, triều đình Huế tiếp tục trượt dài, thỏa hiệp, cầu hòa, đầu hàng, tạo điều kiện cho Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây. Các nhóm nghĩa quân miền Đông rơi vào thế bị đàn áp, cô lập. Trương Quyền quyết định kéo quân về Suối Giây (Tây Ninh). Pháp phát hiện, mở cuộc tấn công. Trương Quyền buộc phải chia quân ra, vượt sông Cửu Long, kéo xuống Hậu Giang; trên đường, không may, bị trúng đạn, trút hơi thở cuối cùng trên bờ sông Cửu Long, 1867!

 II. Dòng họ Võ và cụ Võ Văn Nhâm ở Bà Giã, dòng họ Đặng và cụ Đặng Thúc Liêng ở Bàu Sim

 Nhân vật và sự kiện được phản ánh là kết quả từ hoạt động của gia đình. Các nhân vật có thể bị quên lãng, con cháu chúng ta có thể không ai biết, nếu ta không nhắc lại. Đây là những nhân vật tích cực trong lịch sử mà huyện cần ghi nhận.

 A. Về cụ Võ Văn Nhâm

 Là con thứ hai của cụ Võ Văn Hay (1800 - giỗ ngày 13/3 Âl), là thôn trưởng thôn Phước An, nay là xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi, được phân canh đất là 2 mẫu 8 sào 12 thước ta. Giấy tờ phân canh (cấp năm 1830), có 10 chữ ký từ dưới lên trên, do mới sao lục tại kho lưu trữ Hà Nội năm 2005. Tổ quán trước ở Thuận An, Huế. Các em và thân thích vào Nam khoảng trước 1800 hay hơn nữa, có:

- Bà Võ Thị Phụng.

- Ông Võ Văn Sót, khi tới Bà Giã, ông hãy còn nhỏ, đến 15 tuổi thì đổi địa bàn, lên giáp ranh giới rừng của đạo Quang Hóa, lập gia đình với bà Phạm Thị Hiệp; tham gia nghĩa quân kháng Pháp. Ông sinh ra 9 người con, dấu biệt tông tích, đổi sang họ Lê, với lời dặn: “sống họ Lê, chết họ Võ”. Thôn Phước An và thôn Tân Mỹ là tên hai cố quán, bờ Nam của Thuận An, huyện Phú Vang, là thôn Phước An, bờ Bắc, huyện Hương Trà là thôn Tân Mỹ. Chín người con sinh ra các hậu duệ, có bà nội ông Huỳnh Văn Một là họ Lê, có Lê Minh Xuân (Lê Văn Sia) là anh hùng lực võ trang.

- Người cháu Võ Văn Sáng.

- Một chi họ Võ mới tìm ra mối quan hệ thân thích, có ông Võ Văn Một, nguyên chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai.

Con của Võ Văn Hay - Nguyễn Thị Điền:

- Thứ hai: Võ Văn Nhâm (1816 - ?).

- Thứ ba: Võ Văn Ngoan (1818-1912).

- Thứ tư: Võ Văn Ngùy.

- Thứ năm: Võ Thị Thảo.

- Thứ sáu: Võ Thị Trung.

- Thứ bảy: Võ Văn Cơ, cùng xóm với ông tư Ngùy, về hướng Đông.

- Thứ tám: Võ Thị Giàu, chết trẻ.

- Thứ chín: Võ Thị Đây, lấy chồng về xã Nhuận Đức, tổ mẫu bà Minh Hiền, nhà báo.

- Thứ mười: con trai út, Võ Văn Đó, người phụng dưỡng và cúng giỗ cha mẹ.

 Có nhiều giai thoại, giả thuyết về ông Võ Văn Nhâm, sau đây là những cứ liệu xác đáng:

 + Ông sinh ra và lớn lên ở Bà Giã, năm 1816, được cha mẹ cho đi học võ và là người giỏi võ.

+ Cùng Trương Quyền tổ chức đánh Pháp: lập cơ sở, làm lò rèn ở Tha La, Bà Sự, Núi Cậu để rèn vũ khí chiến Tây; lập Vòng Thành ở Bưng Rê, Long Nguyên, nay là xã Tân Lập, Dầu Tiếng, để giấu quân; nuôi trâu đàn, làm sa lớn Hà Nu để bắt cá nuôi quân. 

 + Các trận đánh của Trương Quyền ở Hóc Môn, Củ Chi, có tham gia của ông Nhâm.

 + Năm 1945, ông Võ Văn Diệu (xã Diệu) làm cộng sản năm 1940, ở tù từ Côn Đảo về, lập "Hội thề Bà Giã", để tôn vinh ông và động viên chiến sĩ.

+ Mộ ông hiện nay tại đồng mả xóm Bến, Bà Giã. Ngày 4/7/2005, UBND tỉnh Bình Dương ra quyết định công nhận là “Di tích lịch sử cách mạng Vòng Thành họ Võ, xã Long Tân, tỉnh Bình Dương”.

 Ông Võ Văn Nhâm là một võ viên, một nghĩa dũng chống Pháp, vì việc nghĩa hy sinh, nhân dân đời đời ghi nhớ. Con cháu ngày nay đông đảo, có ông Võ Tấn Tạo (Sáu Liễng), nguyên tỉnh ủy viên tỉnh Gia Định; Sáu Vĩnh, nguyên phó ban tổ chức Thành ủy... và nhiều người là nông dân cần mẫn.

 B. Về họ Đặng ở Bàu Sim với Đặng Văn Duy, Đặng Thúc Liêng

 Đây là một họ có bề thế của huyện Củ Chi, vào Nam từ cuối thế kỷ 18, đến nay đã có 8 đời, hiện gốc là ấp Bàu Sim, xã Tân Phú Trung, nay thuộc bản đồ hành chánh xã Tân Thông Hội.

Có ba phái họ Đặng:

- Phái họ Đặng ở Trảng Bàng.

- Phái họ Đặng ở Bàu Sim.

- Phái họ Đặng ở Dĩ An.

- Với các cánh họ Đặng khác thường hay quan hệ.

Phả đồ:

 Đặng Văn Cần ĐỜI I

 Đặng Văn Duy ĐỜI II

 Đặng Văn Sơn Đặng Văn Lộc Đặng Văn Điểm ĐỜI III

 Đặng Văn Tồn Đặng Thúc Liêng Đặng Văn Kim ĐỜI IV

 Đặng Thị Nhâm Đặng Mạnh Anh Đặng Thị Triệu    Đặng Công Thắng     ĐỜI V

…….

+ Cụ Đặng Văn Duy (1830 - 1885), nhỏ hơn ông Nhâm 14 tuổi, cùng Nguyễn Tri Phương và Trương Định giữ Đại đồn, thất thủ; đầu quân với Trương Định, làm chuyên biện Tân Ninh - Quảng Hóa, đánh và diệt quan ba Tây ở đồn Tây Thới (Ấp Đồn), làm quan Ân sát, kiêm Doanh điền sử tỉnh Bình Thuận.

+ Cụ Đặng Văn Doi (1835 - 1895), là con Đặng Văn Lộc, giữ chức tri huyện, tích cực trong phong trào kháng Pháp, cùng Nguyễn Văn Trác chạy ra Bình Thuận, nửa đường tới Bông Trang - Nhà Đỏ thì chết.  

+ Cụ Đặng Thúc Liêng (1867 - 1945), là con thứ năm cụ Đặng Văn Duy, 19 tuổi (1886), theo cha ông quyết chí dấn thân vào con đường cứu nước, theo Phan Tôn qua Trung Quốc mở cơ sở mậu dịch, kiến nghị Triều đình đưa thanh niên ra nước ngoài học Anh ngữ về canh tân đất nước; tháng 12/1903, hội kiến Phan Bội Châu ở Sa Đéc. Sau đó, sát cánh với các ông Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thành Hiến, Nguyễn An Khương, Nguyễn Quang Diệu mở cuộc vận động thanh niên Nam kỳ sang Nhật du học theo chương trình Đông Du. Ông tích cực tham gia "Khuyến du học hội" với Nguyễn Thành Hiến. Năm 1909, Đặng Thúc Liêng bị bắt cùng Trần Chánh Chiếu và 40 người khác ở khám đường Mỹ Tho. Ra tù, cụ chuyên chú về mặt kinh tài, lập ra "Minh Tân Công Nghệ", nhằm khuếch trương kinh tế, chống thực dân độc quyền, lập công ty xà bông "Con Vịt", lập xưởng chế tạo diêm quẹt, gầy dựng ra nhiều xí nghiệp và khách sạn, ngầm giúp tài chính cho phong trào Duy Tân.  

Ông cùng với Trần Chánh Chiếu quyết liệt chống tên vong bản Trần Bá Thọ, con Tổng đốc Lộc - hùm xám Cái Bè.

Khoảng 1910, mở tiệm thuốc Bắc ở Sa Đéc để "cứu người giúp đời.

Chính trong khoảng thời gian này, ông chú tâm phát triển ngành ca kịch sân khấu, xây rạp hát, chấn chỉnh nghệ thuật hát bội, "đồng thời đưa ra sáng kiến áp dụng nghệ thuật dân ca mới trên sân khấu hát cải lương" (Huỳnh Lứa).

 Năm 1911 trở lên Sài Gòn làm báo: nội dung bài báo sắc sảo, hô hào chấn hưng kinh tế, phát triển công - thương nghiệp Việt Nam, chống độc quyền lũng đoạn của thương gia ngoại kiều, bài báo kêu gọi thành lập “Tam kỳ mậu dịch trương”, “Thông thương hội”.

 Giúp đỡ Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường làm báo "Tiếng Chuông Rè". Làm báo "Việt Dân Báo" (1931).

Đặng Thúc Liêng là một nhà Nho yêu nước nhiệt thành.

Ngoài các hoạt động yêu nước, trên các lĩnh vực y học, văn học, báo chí, nghệ thuật sân khấu cải lương Nam bộ, là những cống hiến to lớn, chiếm gần hết quãng đời hoạt động của ông. “Ông là người đa tài, đa năng, đã sáng tác hàng chục tác phẩm, nhiều thể loại, được giới văn học miền Nam yêu mến và cực kỳ kính trọng. Ông cũng là nhà báo nổi tiếng trong làng báo miền Nam lúc bấy giờ (Huỳnh Lứa).

Đặng Thúc Liêng có đời sống thanh bạch, đức độ, luôn nghĩ đến và làm những việc ích quốc lợi dân.

Với Đặng Thúc Liêng, ta còn phải nghiên cứu chiều sâu nhiều vấn đề về thân thế sự nghiệp của ông, mới có thể gọi là một sự đóng góp đầy đủ được.

* Con cháu của họ Đặng trên đất Củ Chi: Đặng Công Bình, Đặng Văn Tỷ, chết ở Côn Đảo, Đặng Văn Hải là người kháng chiến chống Pháp, cùng các con cháu là nông dân, chống Mỹ kiên cường trên huyện nhà.

III. Nhận xét, đề xuất

- Nhân dân Củ Chi anh hùng. Các dòng họ có người tiên phong ứng nghĩa chống Pháp. Con cháu ngày nay nối tiếp, phát huy truyền thống tốt đẹp.  Đây là tấm gương vô cùng quý báu, sáng ngời và đáng tôn thờ của chúng ta.

- Có con người nghĩa khí, hành động kiên trung, song dễ bị lãng quên, nếu không có những cuộc điều tra, nghiên cứu, giới thiệu... Các cụ đã cống hiến đời mình vào cuộc kháng chiến, nhờ có ngành gia phả mà ta mới có dịp biết được lai lịch các cụ. Hãy trân trọng những gì có được.

- Ngành tuyên huấn huyện, ngành văn hóa - giáo dục huyện... hãy cùng với thành phố tiếp tục nghiên cứu, phát hiện những hành trạng, sự kiện trong các dòng họ, bằng phương pháp sử học, gia phả học, để làm phong phú thêm trang sử của huyện nhà.

- Việc đặt tên đường, tên trường, việc đầu tư xây dựng nhà thờ tổ, bia tưởng niệm, nhất là ở giai đoạn chống Pháp đầu tiên, với phong trào Duy Tân, Thiên Địa hội, Hội kín Nguyễn An Ninh - là các giai đoạn thường bị thiếu sót, ta phải chú ý bổ sung đầy đủ.

- Đề nghị mỗi xóm ấp, các dòng họ ai cũng được hướng dẫn dựng gia phả dòng họ mình, đây là phương pháp bổ sung lịch sử tốt./.

 Nhà nghiên cứu VÕ NGỌC AN

(Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP.HCM)