Trang chủ > Giới thiệu về Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP.HCM

Giới thiệu về Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP.HCM

14/08/2022 15:42:27

Buổi đầu Trung tâm chỉ có 6 thành viên gồm các đối tượng khác nhau: nhà báo, nhà giáo, nhà nghiên cứu khoa học và chuyên viên Hán Nôm. Nhóm được Giáo sư Mạc Đường, Phó Giáo sư Huỳnh Lứa, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu và cụ Dã Lan Nguyễn Đức Dụ tác giả quyển “Gia phả khảo luận và thực hành” làm cố vấn.

Bà Phan Kim Dung, Phó Giám đốc TTNC&THGP TPHCM - tác giả bài viết

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH GIA PHẢ TP.HCM

1.1. Nhóm “nghiên cứu và thực hành gia phả” ra đời

Nhận thức được lợi ích của gia phả đối với việc giáo dục gia đình, dòng họ, đồng thời góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, năm 1992, sau khi mãn khóa lớp Cao học 1 của Viện Khoa học Xã hội Thành phố do GS Mạc Đường lúc đó làm Viện trưởng đứng ra tổ chức, ông Võ Ngọc An lúc đó là học viên của lớp học này, đồng thời là Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất lập nhóm “Nghiên cứu và thực hành gia phả”, được Sở Văn hóa Thông tin cho phép hoạt động thử nghiệm.

Nhóm chỉ có 6 thành viên gồm nhiều đối tượng khác nhau: nhà báo, nhà giáo, nhà nghiên cứu Hán - Nôm tự nguyện tham gia, bầu ông Võ Ngọc An làm trưởng nhóm. Nhóm được GS Mạc Đường, PGS Huỳnh Lứa, Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, và cụ Dạ Lan Nguyễn Đức Dụ làm cố vấn. Nhóm hoạt động với phương châm: “Nghiên cứu gia phả là khoa học, thực hành gia phả là thiêng liêng”. Công trình nghiên cứu chính của nhóm là cuốn “Khảo luận và thực hành gia phả” của cụ Dạ Lan Nguyễn Đức Dụ và các loại sách hướng dẫn viết gia phả của các tác giả khác.

Nhóm xác định cấu trúc mới của bộ gia phả để thực hành. Bộ gia phả họ Võ ở xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, là chi họ Võ của ông Võ Ngọc An, được  nhóm dựng thử nghiệm đầu tiên, phải mất 2 năm để hoàn thành, được bà con họ Võ phấn khởi, các cơ quan chức năng tán thành và khuyến khích. Với sự thành công bước đầu nhóm tiếp tục vừa thực hành vừa rút kinh nghiệm gần 30 bộ gia phả nữa thuộc nhiều đối tượng khác nhau: lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp như Phan Công Hớn, Nguyễn Văn Quá, lãnh đạo khởi nghĩa 18 thôn vườn trầu; đối tượng là lão thành cách mạng như họ Bùi của Bùi Văn Thủ, Bùi Văn Ngữ, Võ Văn Tần, Phan Văn Đối… Đặc biệt là gia phả họ Trương ở Gò Công, hậu duệ là nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa. Kết quả là chất lượng bộ gia phả ngày càng tăng, lực lượng chuyên môn ngày càng đông đảo.

1.2. “Chi hội gia phả - hồi ký” được thành lập

Nhận thấy sự phát triển của nhóm “Nghiên cứu và thực hành gia phả”, năm 2002, PGS Huỳnh Lứa cho phép nhóm mở Đại hội thành lập chi hội Khoa học Lịch sử thuộc Hội Khoa học Lịch sử Thành phố. Đại hội được mở vào ngày 23 tháng 3 năm 2002, với tên là  “Chi hội gia phả - hồi ký” thuộc Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh quản lý. Chi hội tiếp tục công việc nghiên cứu và dựng phả, viết hồi ký, đồng thời thực hiện nhiệm vụ của chi hội. Số lượng gia phả ngày càng tăng được nhân dân tín nhiệm, lãnh đạo Đảng và nhà nước quan tâm. Điều này khuyến khích chi hội hoạt động tích cực hơn.

1.3. Chi hội được nâng lên thành “Trung tâm Nghiên cứu và thực hành gia phả”

PGS Huỳnh Lứa - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Thành phố theo sát và giúp đỡ hoạt động của Chi hội. Thấy được sự phát triển của Chi hội, ông đề nghị làm thủ tục để Hội Khoa học Lịch sử xét, nâng Chi hội thành “Trung tâm Nghiên cứu và thực hành gia phả”. Trung tâm chúng tôi lập đề án, thảo điều lệ nộp lên Hội và kết quả là Chi hội được nâng lên thành Trung tâm Nghiên cứu và thực hành gia phả theo quyết định số 24/QĐ.HKHLS ký ngày 20 tháng 11 năm 2005, do ông Võ Ngọc An làm Giám đốc. 

Phấn khởi trước thành quả đạt được, Trung tâm chúng tôi không ngừng củng cố tổ chức, mở rộng mạng lưới chuyên môn đến Hà Nội, Đà Nẵng, Long An, Đồng Nai và xây dựng lực lượng bồi dưỡng chuyên môn dựng phả về kiến thức lịch sử, về văn hóa, dòng họ bằng nhiều hình thức khác nhau. Chúng tôi cũng tăng cường quảng bá qua báo chí, phát thanh truyền hình, trang web, mở lớp tập huấn về phương pháp dựng phả ở thành phố cũng như các tỉnh lân cận; triển lãm gia phả, dựng phim về hoạt động gia phả. Trong 20 năm hoạt động (tháng 6/1992 đến tháng 6/2012) chúng tôi đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.

II. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC CỦA TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH GIA PHẢ TRONG 20 NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN (6/1992 - 6/2012)

2.1. Dựng gia phả

Trong 20 năm qua, Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Thành phố Hồ Chí Minh đã dựng được 130 bộ gia phả ở huyện Củ Chi, Hóc Môn, Bà Điểm, Gò Vấp, quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh và mở rộng qua các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Bình Định, Hưng Yên, Hà Tĩnh, Thái Bình, nhưng nhiều nhất là ở huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Các bộ gia phả đã dựng gồm nhiều đối tượng khác nhau. Sau đây là một số đối tượng tiêu biểu:

- Đối tượng là nông dân và nhân dân lao động: gia phả họ Ngô ở Thủ Thừa, tỉnh Long An, họ Huỳnh ở Bình Trị Đông.

- Lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp: họ Phan ở Bà Điểm có hậu duệ là Phan Công Hớn; họ Nguyễn ở Đức Hòa có ông Nguyễn Văn Quá, hai ông lãnh đạo nghĩa quân khởi nghĩa 18 thôn Vườn Trầu năm 1885.

- Họ Nguyễn ở Đông Hưng Thuận có ông Nguyễn Ảnh Thủ đánh Pháp ở đồn Thuận Kiều.

- Nhà cách mạng lão thành: họ Võ ở Bình Thủy, huyện Đức Hòa có ông Võ Văn Tần, Võ Văn Ngân tham gia cách mạng từ thời Tiền khởi nghĩa; họ Bùi ở Bà Điểm có Bùi Văn Thủ, Bùi Văn Ngữ, Xứ ủy Nam Kỳ.

- Cán bộ cao cấp của Đảng và nhà nước: họ Trương ở Xóm Dinh, xã Tân Đông, huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang có hậu duệ đời thứ 5 là bà Trương Mỹ Hoa (nguyên Phó Chủ Tịch nước); họ Phan ở ấp Chánh, xã Tân Thông Hội có hậu duệ là nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải; họ Trương ở Đức Hòa, Đức Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, ông Tổ là Trương Bào, có hậu duệ là ông Trương Tấn Sang, đương kim Chủ tịch nước.

- Lãnh đạo TP HCM: có gia phả họ Nguyễn ấp Tân Trạch, xã Bạch Đằng, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, có hậu duệ là ông Nguyễn Hoàng Quân, do cha mẹ làm cách mạng nên ông mang họ Lê - đương kim Chủ tịch UBND TP HCM.

- Lãnh đạo ngành công an: gia phả nhà họ Lê gốc huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu. Đó là chi họ của Đại tướng Lê Hồng Anh - nguyên là Bộ trưởng Bộ Công an; họ Lâm ở ấp Cái Ngang, xã Hòa Thạnh, Thành phố Cà Mau, có hậu duệ là ông Lâm Văn Thê - Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an).

- Đối tượng là doanh nhân: gia phả họ Huỳnh ở Cần Giuộc, Long An, hậu duệ là ông Huỳnh Văn Minh - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP HCM; họ Phan ở Gò Công là chi họ của ông Phan Văn Nguyên; họ Lê ở ấp 3 xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, có ông Lê Văn Hồng - Giám đốc Công ty xây dựng Thành Nhân, Thành phố Biên Hòa…

- Đối tượng là Việt kiều: gia phả họ Lý ở Chợ Lớn, là chi họ của ông Lý Tường Quang, có hậu duệ là ông bá hộ Xường - một trong 4 cự phú ở Nam Bộ thời Pháp thuộc.

- Người Việt gốc Hoa: gia phả họ Châu ở phường 5, thành phố Cà Mau - chi họ ông Châu Văn Đặng gốc người Triều Châu; họ Tô ở Bình Mỹ - huyện Củ Chi có hậu duệ là Tô Ký; họ Dương là chi họ của ông Dương Kỳ Hiệp tham gia kháng chiến, làm kinh tế giỏi; họ Lâm ở xã Hòa Thạnh, huyện Đầm Dơi, Thành phố Cà Mau có hậu duệ là Thứ trưởng Bộ Nội vụ Lâm Văn Thê.

- Đối tượng là nhà Sử học chân chính, nhà giáo ưu tú, nhà chính trị lỗi lạc: họ Trần của giáo sư Trần Văn Giàu.

2.2. Viết hồi ký

Trong 20 năm qua Trung tâm Nghiên cứu và thực hành gia phả đã viết được 15 cuốn hồi ký ghi lại những tấm gương điển hình trong lao động và chiến đấu để con cháu thế hệ mai sau học tập.

2.3. Công tác Hán - Nôm

Sử dụng Hán - Nôm trong việc dịch và dựng phả như đọc bia mộ, bài vị, gia phả cổ bằng Hán - Nôm. Nhờ vậy, mà phát hiện được đúng tên người nằm dưới mộ, chỉnh được những sai sót trước kia. Nhờ dịch gia phả cổ nên phát hiện được bộ gia phả họ Vũ - Võ ở Mộ Trạch giỏi việc học, nhiều người đỗ đạt,làm quan đời Lê - Trịnh; dịch được bộ gia phả của họ Trương gốc Trương Minh Giảng, Trương Minh Ký; gia phả họ Trần của ông Trần Tiểu Thành, là binh bộ thượng thư, phụ chánh đại thần Triều Nguyễn.

Viết lịch sử đình:

- Tổ Hán - Nôm đã dịch di sản Hán - Nôm của các đình chùa và viết được lịch sử tám đình ở Củ Chi, Bà Điểm, Đồng Tháp, Đồng Nai.

- Phối hợp với bộ phận Hán - Nôm của Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ chí Minh dịch bia, liễn đối, hoành phi của mười một Hội quán ở Thành phố Hồ Chí Minh, dịch và xử lý “một số văn bản Hán - Nôm” của xã Minh Hương, tỉnh Vĩnh Long, đã đề xuất in thành sách với tựa đề “Định cư người Hoa trên đất Nam Bộ” giúp ta hiểu được lịch sử trên dưới 250 năm của người Hoa từ thế kỷ XIX đến 1945. Họ đã đóng góp mọi mặt cho vùng đất Nam Bộ.

- Tiếp tục phối hợp với bộ phận Hán - Nôm của Viện Khoa học Thành phố Hồ Chí Minh và bảo tàng tỉnh Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bia người Hoa giúp cho ta biết được đặc trưng của Hội quán người Hoa mang tính chất Bang, Hội. Bia ghi chép cụ thể việc trùng tu Hội quán, xây cất bệnh viện, trường học, nhà cho thuê nhằm tìm thu nhập cho Bang, Hội.

- Liễn đối, hoành phi, sắc phong đình, chùa, miếu mạo nhằm ca tụng các vị thần, cầu cho quốc thái, dân an, mùa màng thuận lợi.

- Liễn đối nhà dân nặng về giáo dục gia đình, có nội dung triết lý sâu sắc, đã để lại những áng văn hay.

III. NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA CỦA 130 BỘ GIA PHẢ TRONG 20 NĂM QUA (1992 - 2012)

Qua nghiên cứu 130 bộ gia phả đã dựng trong 20 năm qua, chúng tôi nhận thấy 130 chi họ đã có nhiều đóng góp cho truyền thống văn hóa và lịch sử của dân tộc Việt Nam.

3.1. Về văn hóa:

- Truyền thống văn hóa “uống nước nhớ nguồn”

Từ một nhà đến một họ rồi đến một nước, không thể không biết đến nguồn gốc của mình bắt đầu từ đâu. Mỗi bộ gia phả đều giới thiệu cụ thể nguồn gốc họ. Việc lập 130 bộ gia phả giúp cho 130 chi họ tìm đuợc cội nguồn và biết được công ơn của tổ tiên để tri ân, tăng cường mối đoàn kết trong họ tộc, nuôi dưỡng đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Do vậy, mỗi bộ gia phả là một tài liệu giúp thế hệ sau kế thừa các giá trị truyền thống được lưu truyền từ đời trước đồng thời cũng là tài liệu lịch sử lưu truyền đến hàng nghìn năm sau.

- Truyền thống cần cù và sáng tạo trong lao động

Ông Tổ các họ tộc buổi đầu thiên cư vào Nam, đổ mồ hôi ra sức khai hoang, chống thú dữ và thiên nhiên khắc nghiệt để biến vùng đất hoang vu thành đồng ruộng phì nhiêu và những mảnh vườn màu mỡ để cho cây lành trái ngọt cảnh quan xinh đẹp. Đã có trường hợp ông Tổ bị thú dữ sát hại phải nằm lại vĩnh viễn ở bìa rừng khi tuổi đời còn thanh xuân. Đó là trường hợp ông tổ họ Trương ở Gò Công.

Cũng có người giỏi võ, trong buổi đầu khai hoang đã giết được hổ dữ phá hoại hoa màu rồi xây miếu thờ ông Hổ. Hiện miếu vẫn còn tồn tại được bà con gìn giữ, tổ chức cúng quải hằng năm. Đó là trường hợp ông tổ họ Trần ở ấp Dân Thắng 1, xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn. Đó là chi họ của Thiếu tướng tình báo, anh hùng lao động Trần Văn Danh… Dù khó khăn gian khổ, bà con họ tộc vẫn đứng vững trong cuộc sống, trong mưa bom lửa đạn của hai cuộc chiến tranh khốc liệt là chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, các họ tộc vẫn lạc quan, lao động, nêu gương cần cù cho lớp lớp con cháu noi theo.

Sau khi hòa bình lập lại, con cháu 130 chi họ đã trở thành công nhân trong xí nghiệp, công chức của cơ quan hay người lao động ngoài xã hội… Tất cả đều lao động cần cù sáng tạo. Đó là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, cần được trân trọng giữ gìn.

- Lòng hiếu thảo và sự tôn kính phụng thờ tổ tiên:

+ Trong 130 chi họ, chi họ nào cũng quan tâm đến việc thờ cúng tổ tiên, nhà nào cũng có bàn thờ gia tiên, việc thờ cúng ông bà đuợc thực hiện nghiêm túc. Việc chăm sóc mồ mả ông bà được coi như bổn phận thiêng liêng của con cháu, dù có được hưởng hương quả hay không có hương quả việc cải tạo chăm sóc mộ phần của ông bà vẫn chu đáo. Họ Võ ở xã Mỹ An Hưng, huyện Lắp Vò, tỉnh Đồng Tháp, đã chia ruộng hương hỏa cho các con nhiều hơn phần thực… Nhiều chi họ đã xây nhà thờ tổ như họ Liêu ở ấp Mũi Lớn, họ Mai ở ấp Chánh, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, họ Lê ở Đồng Nai, họ Nguyễn ở ấp Tân Trạch, xã Bạch Đằng, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, đã tập hợp được họ hàng trong ngày giỗ tổ.

+ Bà con trong họ tộc thăm hỏi nhau kịp thời lúc ốm đau.

+ Sự đóng góp lớn về văn hóa của 130 chi họ là đáng kể. Nhân sĩ họ Đặng ở Bàu Sim đã sản sinh ra nhân sĩ Đặng Thúc Liên, một nhà văn, nhà báo lớn. Họ Trần ở xã Long Trì, quận Châu Thành, tỉnh Long An, có hậu duệ là cố giáo sư Trần Văn Giàu, là một nhà văn hóa, tư tưởng lớn.

3.2. Đóng góp cho lịch sử

Trong 130 chi họ, chi họ nào cũng có đông đảo người tham gia chống thực dân Pháp - đế quốc Mỹ.

Trước khi có Đảng đã xuất hiện những lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp: họ Võ, có cụ Võ Văn Nhâm, người đầu tiên trong họ chiêu tập nghĩa quân đắp vòng thành đất để chống Pháp ở Long Nguyên, Bến Cát (nay là Long Tân, Dầu Tiếng). Ông thất cơ bị Pháp giết. Vòng thành nay được công nhận là di tích lịch sử của tình Bình Dương. Họ Đặng ở Bàu Sim có cụ Đặng Văn Duy theo Trương Định đánh Pháp giết được thằng Tây ở Ngã Ba Ấp Đồn. Trong họ còn có ông Đặng Văn Doi, cùng Nguyễn Văn Trác nổi lên đánh Pháp, thua trận chạy về Bông Trang mất tích; họ Nguyễn ở Đông Hưng Thuận có ông Nguyễn Ảnh Thủ lãnh đạo nghĩa quân đánh Pháp diệt được đồn Thuận Kiều (1871); họ Phan ở Bà Điểm; họ Nguyễn ở xã Mỹ Hạnh Bắc (Đức Hòa), có ông Phan Công Hớn và ông Nguyễn Văn Quá, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa 18 thôn Vườn Trầu, tấn công huyện Bình Long giết được Trần Tử Ca gian ác; họ Nguyễn ở Mỹ Hòa, quận Hóc Môn, có hậu duệ là ông Nguyễn An Ninh, lãnh đạo phong trào “thanh niên cao vọng” chống thực dân Pháp. Ông bị bắt, bị đày ra Côn Đảo rồi mất ở đó …

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các bậc lão thành cách mạng của các họ tộc theo Đảng chí cốt: họ Võ có hậu duệ là Võ Văn Tần, Võ Văn Ngân, ở Bình Thủy, Đức Hòa, Long An, theo cách mạng từ thời Tiền khởi nghĩa. Hai ông bị bắt, bị xử tử trong Nam Kỳ Khởi Nghĩa (1940); họ Bùi ở ấp Tân Bắc Lân, xã Bà Điểm, có ông Bùi Văn Thử, Bùi Văn Nghĩa, Xứ ủy Nam Kỳ bị bắt, bị đày ra Côn Đảo và mất ở đó; họ Phan ở ấp Tân Lộc xã Phan Thới Nhì, huyện Hóc Môn, đã sản sinh ra một tướng lĩnh tài ba, một anh hùng lực lượng vũ trang là thượng tướng Phan Trung Kiên, nguyên thứ trưởng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; họ Phan ở ấp Chánh, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, có hậu duệ là ông Phan Văn Khải, theo cách mạng qua hai thời kỳ kháng chiến. Sau giải phóng năm 1975, ông giữ chức vụ thủ tướng, nay đã về hưu lo xây dựng quê hương …

Họ Huỳnh ở Bình Trị Đông gốc nông dân nhưng trong hai thời kỳ kháng chiến đã có một bà mẹ Việt Nam anh hùng và 32 liệt sĩ. Đặc biệt trong 130 gia phả đã thể hiện sự đoàn kết dân tộc, đã có một số chi họ thuộc dân tộc Hoa theo cách mạng triệt để như họ Tô ở Bình Mỹ, huyện Củ Chi có tướng Tô Ký, là chi đội trưởng chi đội 12 đã có nhiều đóng góp qua hai cuộc kháng chiến; họ Lâm ở huyện Giá Rai tỉnh Cà Mau có ông Lâm Văn Thê gốc người Triều Châu, qua hai cuộc cách mạng ông đã trở thành thứ trưởng Bộ Nội vụ; họ Châu ở Phường 5, Thành phố Cà Mau, đã sản sinh ra ông Châu Văn Đặng gốc người Triều Châu, triệt để Cách Mạng, ông được phong là Anh hùng vũ trang nhân dân; họ Dương huyện Phong Phú, tỉnh Sóc Trăng có hậu duệ là Dương Kỳ Hiệp theo cách mạng từ năm 1930 vận động bà con hình thành cái nôi cách mạng ở tỉnh Sóc Trăng, làm công tác kinh tài chi viện cho miền Nam thời chống Mỹ. Đời 6, 7 làm kinh tế giỏi …

Đặc biệt họ Trần ở xã Long Kỳ, huyện Châu Thành, tỉnh Long An đã sản sinh ra một nhà sử học chân chính, một nhân vật lịch sử lỗi lạc có nhiều đóng góp cho lịch sử dân tộc, đó là giáo sư Trần Văn Giàu. 

Trên đây là những thành quả mà Trung tâm Nghiên cứu và thực hành gia phảđạt được trong 20 năm qua… 

PHAN KIM DUNG

(GP: 18-10-2012)