Trang chủ > Giá trị văn hóa truyền thống của văn bia

Giá trị văn hóa truyền thống của văn bia

25/08/2022 16:26:38

Văn bia là một loại thư tịch, có niên đại rõ ràng, có giá trị như những tác phẩm văn học nghệ thuật, chứa đựng hệ thống thông tin nhiều mặt về lịch sự, kinh tế, xã hội…đương thời, không chỉ có giá trị trong quá khứ mà còn cả trong hiện tại.

Văn tự trên một bia đá c

Hệ thống văn bia Việt Nam hiện tồn tại là một di sản văn hóa của dân tộc, nó chính là sự gắn kết giữa quá khứ và hiện tại. Sự gắn kết ấy dù là vô hình hay hữu hình cũng đều cho chúng ta tự soi vào đấy để sống đẹp hơn có ý nghĩa hơn.

Ở Việt Nam, văn bia có từ rất sớm. Những văn bia có niên đại ra đời sớm được ghi nhận vào khoảng thời nhà Tuỳ đô hộ nước ta (từ năm 589 -617), hiện còn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, hay bia tám mặt ở chùa Nhất Trụ - Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình) do vua Lê Đại Hành dựng vào năm 995.

Trong cuốn Văn Khắc Hán Nôm do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1992, hiện nay nước ta có 1.919 tấm bia được tuyển chọn từ bia đình, đền, chùa, miếu, thành quách…trên khắp ba miền. Chỉ tính riêng Văn bia cung đình Huế đã để lại một số lượng lớn và phong phú những văn bia khắc bằng chữ Hán Nôm.

Giá trị lịch sử của văn bia

Văn bia thường dùng để ghi lại những sự kiện lớn diễn ra trong lịch sử, sự kiện văn hóa, chính trị…hoặc ca ngợi công đức của các vị vua cai trị và tôn vinh những bậc nho học có công trang hoặc đạt những giải cao trong các kỳ thi do triều đình tổ chức (bia Tiến sĩ).

Ví như một văn bia có từ đầu thế kỷ XI, tại chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn (Thanh Hóa) ghi lại lời của Lý Thường Kiệt như sau: “Xây dựng lâu ngày cõi báu đã xong, nếu không khắc bia để lại thì con cháu không biết tìm đâu để noi theo dấu vết nên phải dùng văn bia trình bày rõ ràng công việc đã làm, dù cho nhân vật có đổi dời tiếng lành vẫn truyền mãi”.

Theo sử sách Việt Nam có viết, văn bia thường có nội dung về xây dựng như: chọn địa điểm, vị trí, theo thuyết phong thủy, ca ngợi cảnh đẹp, ca ngươi nhân vật được thờ tự...

Người hiền tài là nguyên khí quốc gia. Vì vậy, người đỗ đạt cao thường được lưu danh vào bia đá mà người ta thường gọi là bia Tiến sĩ. Hiện nay, tại Văn Miếu –Quốc Tử Giám còn lưu giữ 82 bia tiến sĩ có niên đại từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 (1484 -1779). Những văn bia này được xem là những minh chứng cho sự cần cù hiếu học của nhiều thế hệ ông cha chúng ta, đã góp công sức vào sự phát triển của dân tộc.

Người soạn và viết văn bia phải là người có hiểu biết thâm sâu về Hán Nôm, văn hay, chữ đẹp, thường là những vị quan lớn trong triều, hoặc các nhà thiền sư, hay danh nho như Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu… Cuối văn bia thường ghi ngày, tháng, năm, niên hiệu viết nên văn bia đó để những đời sau biết đến và noi theo.

Văn bia còn có giá trị mỹ thuật cao

Văn bia là một tác phẩm thành văn được ghi trên đá, dó tính quan trong và có sự ảnh hưởng lớn mang tính lịch sử. Do vậy, văn bia thường được chăm chút nhiều về mặt mỹ thuật.

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, đời Lý, văn bia đặc điểm thường có dáng cao to, có bia cao tới 2,5m x 1.7m, dày 0,29m, trông rất uy nghiêm và hoành tráng như một tượng đài. Có lẽ, ngoài ý nghĩa và văn phong trong nội dụng được ghi trên bia, hình thức to lớn của bia còn nhằm khẳng định tinh thần độc lập tự chủ, có bản sắc văn hóa riêng của nước Đại Việt bên cạnh nước Đại Tống luôn có mưu đồ bá quyền. Trên trán bia và diềm bia đều trang trí, chạm khắc họa tiết hoa văn đẹp phù hợp với chủ đề cần trình bày.

Trán bia là hình cong hai mặt, chạm khắc lưỡng long (hai con rồng) hoặc lưỡng phượng chầu “mặt nguyệt”. Thời Lý, mặt nguyệt là một vòng tròn sáng, nhọn ở đỉnh đầu, thời Trần thường thay bằng hình chữ Phật (Hán tự) hình vuông, thời Lê là là hình mặt trời có tia, thời Mạc là một vòng tròn ngoài có thêm 1 đến 3 vòng tròn đồng tâm, làm nổi rõ hình tượng “mặt nguyệt”, và về sau là hình mặt trời có nhiều tia sắc nhọn trông như ngọn lửa thiêng thiêu cháy mọi tà ma, bảo vệ sự trong sạch và an lành nơi đền chùa Phật pháp…

Mỗi thời, bệ bia đã cũng được điêu khắc theo một kiểu dáng riêng. Thời Lý, bệ bia được chạm khắc hình Rồng, Rắn quấn lấy nhau và đầu luôn vươn lên với ý nghĩa thiêng liêng. Thời Trần, bệ bia thường được điêu khắc hình Rùa với ý tưởng nhấn mạnh về một xã hội ổn định, phát triển trường tồn. Còn bệ bia thời Nguyễn là một khối đá trông vững chắc và uy nghi, có khi là hình tượng rùa đội bia được đặt lên bệ đá, với ý tưởng xây dựng một quốc gia vững mạnh, kỷ cương xứng danh nước Đại Nam sánh vai với nước Đại Thanh phía Bắc.

Bia đá chính là sự khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc, do đó chúng ta cần đọc, hiểu, trân trọng và phát huy hơn nữa những giá trị của ông cha ta để lại.

Theo Cuocsongviet.com

(GP: 10-6-2010)