Trang chủ > 044. Gia phả họ Nguyễn (thôn Vĩnh Tú, Vĩnh Trường, Vĩnh Linh, Quảng Trị)

044. Gia phả họ Nguyễn (thôn Vĩnh Tú, Vĩnh Trường, Vĩnh Linh, Quảng Trị)

19/08/2022 17:38:58

Gia phả họ Nguyễn ở thôn Vĩnh Tú, xã Vĩnh Trường, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị được Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP.HCM hoàn thành năm 2009.

LỜI NÓI ĐẦU

Gia phả họ tộc hay Tộc phả là quyển sách vàng ghi chép cội nguồn dòng họ. Những điều gia phả ghi lại, cho đời sau tỏ tường công lao, đức độ của ông bà đã tạo dựng và phát triển họ tộc; cho con cháu các thế hệ biết mối quan hệ họ hàng, những thành đạt, hoặc thất bại của chi họ. Từ hiểu rõ quá khứ, truyền thống tốt đẹp của dòng họ các thế hệ nối tiếp phấn đấu giữ gìn và rèn luyện để ngày càng làm rạng danh cho bản thân, gia đình và họ tộc.

Mộc bản thủy nguyên thiên cổ niệm

“Chim có tổ người có tông”, “Cây có cội, nước có nguồn”

Những câu thành ngữ nói lên quan niệm đạo lý của người Việt Nam lưu truyền bao đời nay dẫu cho xã hội có nhiều biến động, thay đổi. Vì vậy, việc truy tìm nguồn gốc tổ tiên, chăm lo mồ mả ông bà, là những điều thiêng liêng của mỗi một con người Việt Nam. 

Dòng họ NGUYỄN sinh cơ lập nghiệp tại thôn Vĩnh Tú, xã Vĩnh Trường, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Các bậc tiền bối đã cần cù lao động với mong muốn gầy dựng cho con cháu đời sau một tương lai rạng rỡ. Điều đáng nói, là đất nước trải qua chiến tranh, các bậc tiền nhân và con cháu họ NGUYỄN chúng ta cùng góp phần đánh đuổi ngoại xâm. Tất cả điều đó là những tấm gương sáng để con cháu học tập, tiếp tục truyền thống của dòng họ phấn đấu xây dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho gia đình mình và góp phần xây dựng cộng đồng xã hội.

Khi bắt đầu dựng nghiệp đến nay, tổ tiên họ Nguyễn hết sức khó khăn trong cuộc sống; rồi chiến tranh, họ hàng quyến thuộc phân tán khắp nơi nên chưa dựng bộ gia phả; điều kiện thắt chặt hơn nữa tình cảm giữa bà con ruột thịt, để có thể cùng nhau chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống, cũng như nhắc nhở con cháu về truyền thống dòng họ. Gia phả cũng là niềm tự hào và sức mạnh tinh thần quí giá trong hành trang của mỗi thành viên dòng họ trên con đường lập nghiệp.

Trong thân tộc có truyền thống báo hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ qua việc chăm sóc mộ phần. Chi nào cũng lập bàn thờ, duy trì việc cúng giổ từ đời ông sơ, ông cố, ông nội, đến đời cha do con trai trưởng hoặc con trai út được phân công đảm nhiệm. Họ tộc ta dựng nhà mộ, nhà thờ Họ để cúng tế Cửu huyền thất tổ,  hương khói tổ tiên, tổ chức ngày giỗ Họ, và là nơi tập hợp con cháu các thế hệ.

Việc dựng gia phả Tộc họ là điều linh thiêng. Nay,  tôi, Nguyễn Minh Lương là con ông Nguyễn Thọ và cháu là Nguyễn Phục Quốc con anh ba tôi, ông Nguyễn Bân có điều kiện đã tiến hành lập phả họ Nguyễn. Tuy nhiên, muốn xây dựng một bộ gia phả hoàn chỉnh cần phải có thời gian, nhân lực và những chuyên môn nghiệp vụ nhất định. Vì thế, với sự đồng ý của bà con thân tộc, những người bạn thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Tp.HCM, là tổ chức dựng gần 100 bộ Gia phả giúp đỡ dựng phả họ tộc.

Ngày 16/5/2009, Trung tâm cử nhóm thực hiện gia phả cùng những người đại diện dòng họ có buổi tiếp xúc đầu để tìm hiểu, ghi chép về bà con thân tộc và nhất là tìm hiểu vị thuỷ tổ của dòng họ mình ở Vĩnh Linh, Quảng Trị thành phố Hồ Chí Minh, và một số nơi khác. Đến nay, gia phả đã cơ bản hoàn thành xin giới thiệu đến bà con dòng họ để chúng ta cùng tham khảo:

- Bộ Gia phả họ Nguyễn  được dựng theo bố cục như sau:

Phần thứ nhứt : Phả ký.

Phần thứ hai  : Phả hệ.

Phần thứ ba  : Phả đồ.

Phần thứ tư : Ngoại phả.

Việc xây dựng gia phả, cội nguồn  và công lao khó nhọc của tổ tiên chỉ  qua chuyện kể. Vì vậy, bước đầu tập hợp chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong bà con thân tộc, thông cảm. Dựng gia phả lại là công việc cần được tiến hành thường xuyên và liên tục, mong rằng toàn thể bà con dòng họ Nguyễn hãy cùng nhau tiếp tục góp sức, bổ sung để gia phả của chúng ta ngày càng hoàn chỉnh.

Cũng qua đây chúng tôi xin chân thành cảm ơn Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Tp.HCM và Tổ Thực hiện đã giúp chúng tôi hoàn thành bộ gia phả này. Xin hoan nghênh sự hợp tác của rất nhiều bà con họ Nguyễn, nhất là anh Nguyễn Trưởng đã dành nhiều thời gian quí báu trong quá trình hoàn thành gia phả tộc Nguyễn.

Tháng  11  năm Kỷ Sửu 2009

Con cháu họ Nguyễn:

NGUYỄN MINH LƯƠNG  Đời XI

NGUYỄN PHỤC QUỐC Đời XII

 

PHẢ KÝ

Họ Nguyễn ở Việt Nam, theo chứng tích lưu giữ là cộng đồng người Việt đông nhất so với các dòng họ khác và sống rất nhiều nơi. Hiện nay, hầu hết các làng xã ở trung du, đồng bằng từ Bắc vào Nam đều có tộc Nguyễn định cư từ nhiều đời. Điều rất đáng quý là những người họ Nguyễn lập nghiệp ở phương xa, xuôi biển ngược rừng vào Nam ra Bắc, cả người ở nước ngoài; từng người hay cả cộng đồng gia tộc định cư nơi ở mới vẫn luôn hướng tới cội nguồn, luôn cố gắng giữ mối liên hệ gia tộc quê hương, huyết thống dòng họ, tìm hiểu cội nguồn Tổ tiên tiên ông bà.

Nghiên cứu quá trình phát tích, phát triển Tộc Nguyễn  tại thôn Vĩnh Tú, ấp Vĩnh Trường, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, trong dòng họ được biết: 

Tộc Nguyễn nơi đây, sinh sống tập trung quanh thôn Vĩnh Tú. Trong họ phần lớn lam lủ sinh sống bằng nghề nông. Một nắng, hai sương, chân lấm, tay bùn. Chiến tranh, bà con ly tán, những người có nhiệm vụ ra chiến trường, người ở lại cùng tham gia chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương. Sau khi hòa bình, dòng họ tiếp tục đi khắp nơi, đến nay nhiều người đứng trong hàng ngũ quân đội, có người là y, bác sĩ là cán bộ công nhân viên trên các lĩnh vực hành chánh sự nghiệp, giáo dục v.v, xa hơn nữa đã có người công tác nước ngoài. Trong họ, các ngành nghề được con cháu các thế hệ mở rộng cùng tiến bộ theo đà phát triển của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, do bận trăm công nghìn việc, trong họ không có điều kiện gom góp ký ức, hệ thống những sự kiện liên quan đến xác định tổ quán, phát tích dòng họ, xác lập mối quan hệ giữa các nhóm họ Nguyễn có quan hệ thân tộc, chủ yếu sinh sống nhiều đời trên đất Vĩnh Tú, Vĩnh Trường, Vinh Linh, Quảng Trị và các địa phương khác .

Phần phả ký này chủ yếu đề cập đến các vấn đề sau:

- Xác định tổ quán và  thủy tổ họ Nguyễn.

- Quá trình hình thành, phát triển của dòng họ.

- Những đặc điểm của dòng họ và mối quan hệ của dòng họ đối với xã hội.

TÔ QUÁN TỘC NGUYỄN: THÔN VĨNH TÚ, ẤP VĨNH TRƯỜNG, HUYỆN VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

Tìm hiểu về tổ quán và vị thủy tổ của dòng họ Nguyễn, qua các tư liệu lịch sử khảo cứu, trong thân tộc: ông Nguyễn Minh Lương, ông Nguyễn Trưởng, chúng ta có thể ghi nhận các sự việc như sau:

Theo ghi chép và truyền khẩu trong thân tộc, họ Nguyễn chúng ta đã phát triển đến đời thứ 13. Nếu đời thứ V ông Nguyễn Thọ, sinh năm 1832, theo cách tính khoa học, mỗi đời cách nhau 25 năm thì ông thủy tổ của dòng họ có thể sinh khoảng: 1632 = [1832 - (25 năm x 8 đời )], thuộc Thế kỷ thứ 17. Thời kỳ nầy, theo lịch sử là thời kỳ chúa Nguyễn Hoàng vào Nam dần mở mang đất đai.

- Nghiên cứu địa danh Vĩnh Linh trong tư liệu lịch sử, chúng ta đước biết: Đất Vĩnh Linh đã có từ thời Hùng Vương. Bấy giờ thuộc bộ tộc Việt Thường. Trong một thời gian dài Vĩnh Linh mang các tên Ma Linh, Chiêu Linh (thuộc Chiêm Thành), sau đó tên Minh Lương, Minh Linh (thuộc Đại Việt).

- Năm 1831, nhà Nguyễn lập ra tỉnh Quảng Trị, đặt ra phủ Vĩnh Linh. 

- Thời kỳ 1945-1954 là huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị. 

- Thời kỳ 1954-1976, Hiệp Định Genève chia cắt Việt Nam thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau là đặc khu Vĩnh Linh, đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh trực thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tên gọi chính thức là Khu vực Vĩnh Linh. 

- Sau nhiều cuộc tách nhập, từ tháng 5 năm 1990 huyện Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị. 

Hiện trên mảnh đất Vĩnh Linh có 68 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng, tiêu biểu là các di tích được xếp hạng cấp quốc gia như đôi bờ Hiền Lương, địa đạo Vịnh Mốc, cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, bến đò Tùng Luật... Di sản văn hóa phi vật thể tại Vĩnh Linh là: Trạng Nguyễn Hoàng. Danh thắng tự nhiên của huyện: Rừng nguyên sinh Rú Linh, Bãi tắm Cửa Tùng.

Vĩnh Linh là huyện thuần nông, cơ cấu kinh tế của huyện là:

- Nông nghiệp 51% 

- Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 28% 

- Thương mại - du lịch 21% 

Sản phẩm chủ yếu gồm có tôm sú, thóc, hạt tiêu, mủ cao su, gỗ gụ, lim.

Diện tích tự nhiên toàn huyện là 620 km². Dân số có 91.000 người (2006), trong đó hơn 1.000 người Bru - Vân Kiều. Về hành chính, huyện gồm 2 thị trấn: Thị trấn Bến Quan, huyện lỵ Hồ Xá  và 19 xã bao gồm: Vĩnh Ô, Vĩnh Khê, Vĩnh Hà, Vĩnh Long, Vĩnh Chấp, Vĩnh Lâm, Vĩnh Sơn, Vĩnh Thủy, Vĩnh Nam, Vĩnh Trung, Vĩnh Tú, Vĩnh Hiền, Vĩnh Hòa, Vĩnh Thạch, Vĩnh Kim, Vĩnh Quang, Vĩnh Giang, Vĩnh Tân, Vĩnh Thành.

XÃ VĨNH TÚ, THÔN  VĨNH TRƯỜNG

Vĩnh Tú một xã nằm ở phía Bắc của huyện Vĩnh Linh. Diện tích khoảng 7 km2. Dân số khoảng 5000 người. Vĩnh Tú có hai vùng đất khác nhau. Vùng đất đỏ Ba zan và vùng cát. Vùng đất đỏ Ba zan chạy dọc theo chiều dài bàu Thuỷ Ứ. Vùng đất cát chạy dọc theo chiều dài truông nhà Hồ.

Xã Vĩnh Tú có các thôn: Thôn Tây, thôn Thuỷ Tú, thôn Mỹ Duyệt (3 thôn này thuộc vùng đất đỏ) thôn Phú Trường (nay là Đông Trường, thôn Hà Kè, thôn Tứ Chính (3 thôn  này thuộc vùng đất cát).

Xã Vĩnh Tú được Đảng nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang năm 1999.

Thôn Đông Trường  còn các tên gọi khác: 

Thôn Phường Dầu: Tên gọi đầu tiên của thôn. Xuất phát từ việc dân trong thôn làm nghề ép dầu sở. Khả năng là triều đình Huế trong thời gian xây dựng các công trình cũng như trong sinh hoạt ở cung đình cần rất nhiều dầu để thắp sáng, đun các vạc dầu và làm vật liệu xây dựng công trình đã cử một vị quan có quê gốc ở Phú Trường trong họ Nguyễn Nhuận ra lập cơ sở ép dầu sở tại đây nên có tên thôn Phường Dầu.

Thôn Đông Trường: Tên này có từ năm 1958, Thôn Phú Trường tách ra hai thôn. Thôn Đông Trường thuộc Vĩnh Tú và thôn Tây Trường gần truông nhà Hồ sát nhập vào xã Vĩnh Chấp.

Đông Trường có diện tích tự nhiên khoảng 2km2. Dân số khoảng 5000 người. Họ khai khẩn đầu tiên là họ Nguyễn Văn.

Nguyễn Nhuận cũng là họ có mặt sớm tại đất Phường Dầu. Họ Nguyễn Nhuận trước đây định cư sớm ở vùng dọc theo truông nhà Hồ. Sau dó chuyển dần về phía đông.

Từ Tp. Hồ Chí Minh ra, trên Quốc lộ I, qua cầu Hiền Lương 18 km có đường tráng nhựa, rẽ phải 4 km là đường vào xã Vĩnh Tú, thôn Vĩnh Trường. Hai bên đường vào thôn đồng ruộng vào mùa lúa trỗ xanh um. Cuối cánh đồng, lũy tre xanh bao bọc xung quanh thôn. Nơi ấy, gia tộc họ Nguyễn chúng ta sinh sống. Đây cũng là nơi có Khu mộ thân tộc và Gia đường, nơi thờ cúng ông bà tổ tiên. 

Xã Vĩnh Tú, đất không rộng, người không đông. Dân chúng chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, nơi đây phần lớn trồng lúa; nhưng theo cơ cấu nông nghiệp và cây phù hợp là hồ tiêu - tiêu Hồ Xá, cà phê, cau. Đất khô cằn, bà con không trồng cây ăn trái, xung quanh nhà thường trồng tre. Ngày nay, theo cuộc sống ngày một nâng cao, điện lưới đã đưa về tận mỗi nhà. Nhân dân trong vùng đã có các phương tiện hiện đại phục vụ trong sinh hoạt như: Truyền hình, tủ lạnh, quạt điện. Đến thôn, trong những ngày làm việc, chỉ gặp được người lớn tuổi, con cháu lớp sau đều là công nhân viên làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp hoặc đi học. 

Trên khoảnh đất tương đối lớn trong thôn, là nhà anh em họ hàng tộc Nguyễn quần tụ. Khi có một người con từ phương xa trở về, bà con các chi tề tựu thăm hỏi, đây là nếp sống thân tình thường thấy trên mọi miền đất nước Việt Nam. Những chi khác, theo nhu cầu sinh sống và do chiến tranh đã đi khắp mọi miền đất nước sinh sống.

II/ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN DÒNG HỌ

Vị họ Nguyễn cao nhất ở th6n Vĩnh Phú, xã Vĩnh Trường, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị 

Vị họ Nguyễn có công khai sáng dòng họ tại thôn Vĩnh Tú, cả ông và bà mộ chôn tại mộ đất của thôn, con cháu trong họ không còn nhớ tên ông là, tên bà. Từ Đời I đến Đời VII chúng ta không biết được cao danh quý tánh cùng tuổi tác, cùng danh tánh của người vợ.

Đời  VIII sinh ra các ông bà:

Ông cả : NGUYỄN HUỲNH

Ông hai : NGUYỄN  tự MINH CÔNG

Ông ba : NGUYỄN HẠP

Bà tư : NGUYỄN THỊ TỢ

Những thông tin tiếp theo cho biết:

Họ Nguyễn Nhuận có tất cả 5 chi. Hiện nay 5 chi này vẫn đang tồn tại và phát triển tại Đông Trường. Riêng chi thứ 2 (Chúng ta đang tập trung làm lịch sử gia phả) có một số biến động.

Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, ông Nguyễn Nhuận Thọ còn gọi là Nguyễn Thọ tìm đường vào phía Nam làm ăn lập nghiệp. Theo sự kể lại của cha ông Nguyễn Trưởng là ông Nguyễn Nhuận Lang (Đã mất năm 2007 thọ 97 tuổi) thì ông Nguyễn Thọ lúc đó được gọi là Sếp Thọ làm chủ thầu đường tàu hỏa tuyến Phan Rang - Đà Lạt. Ông sinh cơ lập nghiệp trong đó và sinh con đẻ cháu. Hiện nay con cháu của ông khá đông đúc và thành đạt đang sống ở thành phố Hồ Chí Minh.

Cùng thời điểm trước Cách mạng tháng 8 con cháu của ông Nguyễn Thọ ở vùng Sông Cầu (Tuy Hoà). Ở Huế cũng có bà con họ Nguyễn Nhuận đang sinh sống. Vì trước đây chi 2 họ Nguyễn Nhuận đã có người từng làm quan đến Thượng thư bộ Lễ. Tuy nhiên, do chiến tranh ly tán, đất nước bị chia cắt nên họ tộc lưu lạc. Đến năm 1997 trong thân tộc gặp mặt lần thứ nhất.

Cũng có thể tại Sơn Tây có dòng tộc họ Nguyễn Nhuận vì có ông Nguyễn (tự Minh Công) đã từng làm tri phủ Sơn Tây. Ông Nguyễn (tự Minh Công) làm quan và mất ở ngoài đó, triều đình đã cho đưa di hài Nguyễn tự Minh Công về Phường Dầu theo thể thức quan lại rất trang nghiêm.)

Về truyền thống của chi 2 Họ Nguyễn Nhuận có những nét cần lưu ý sau:

Họ Nguyễn là một họ người Việt đông nhất trên đất nước Việt Nam. Nguyễn Nhuận là họ tách nhánh từ họ Nguyễn. Sau Nguyễn Nhuận có các nhánh khác như Nguyễn Văn, Nguyễn Hữu, Nguyễn Đức, Nguyễn Phúc… Tuy các chữ đệm có khác, hoặc bỏ chữ đệm, nhưng trong tộc vẫn gọi chung là chi Nguyễn Nhuận.

Chữ NHUẬN theo từ điển Hán Việt có nghĩa là: Thứ hai, dôi ra, thêm. Cũng có nghĩa là thuận, tốt.

III. HỌ NGUYỄN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DÒNG HỌ VÀ XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG

A. Sự phát triển về số lượng

Ông thuỷ tổ họ Nguyễn sinh sống chính ở thôn Vĩnh Tú, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Con cháu và mồ mả ông bà còn lưu lại nơi đây đã chứng minh điều này. Nhưng qua các đời sau do đất nước bị chia cắt, con cháu đi nhiều nơi sinh con cháu nối nghiệp cho đến nay là đời thứ XIII. 

Đất nước hòa bình con cháu nhiều lần truy tìm dòng họ nhưng chỉ biết đươc những thông tin giới hạn như sau:

- Về ông Tổ,  Đời VII trong họ gọi là Trưởng Phái, sinh ra các ông bà (Đoi VIII):      

THỨ NHẤT :  NGUYỄN HUỲNH.

THỨ HAI         :  NGUYỄN  tự MINH CÔNG.

THỨ BA         :  NGUYỄN HẠP

THỨ TƯ :  NGUYỄN THỊ TỢ.

Các ông Nguyễn Huỳnh, Nguyễn Hạp, bà Nguyễn Thị Tợ chưa có thông tin

Đến đời ông Nguyễn tự Minh Công lập gia thất sinh ông  Nguyễn Nhuận Bảng  Đời IX, ông Nguyễn Nhuận Bảng có hai đời vợ: Bà thứ nhất: Tô Thị Hô, bà thứ hai: Đỗ Thị Tời (Đời X). 

Bà cả Tô Thị Hô sinh 3 người con (2 gái, một trai):

Thứ nhất : Nguyễn Thị Ước

Thứ hai : Nguyễn Thị Diên.

Thứ ba : Nguyễn Bá  (Viên)

Bà hai Đỗ Thị Tời, sinh 3 người con (2 trai, 1 gái):

Thứ tư : Nguyễn Thọ.

Thứ năm : Nguyễn Tư Dương tự Nguyễn Tương Dư.

Thứ sáu : Nguyễn Thị Mót tự Nguyễn Thị Cát .

Như vậy đến Đời VIII, ông Nguyễn tự Minh Công  sinh  1 người con là Nguyễn Nhuận Bảng (Đời IX)sinh 3 người con trai: Nguyễn Bá (Viên), Nguyễn Thọ, Nguyễn Tư Dương lập nên 3 chi (Đời X):

Đời X và đời XIII con cháu trong họ tộc trưởng thành vào đầu thế kỷ 20. Bấy giờ ý thức dân tộc về chống ngoại xâm đô hộ đã được  trong họ tộc tham gia kháng chiến không chỉ ở tại Vĩnh Linh mà đi khắp các nước.

Dòng 1: Ông ba Nguyễn Bá Viên lập gia thất và sinh ra các con:

Thứ nhất : Nguyễn Thị Tiết

Thứ hai : Nguyễn Thị Hạnh.

Thứ ba : Nguyễn Nhuận Lang

Thứ tư : Nguyễn Trung.

Thứ năm : Nguyễn Hiếu.

Ông Nguyễn Nhuận Lang kết nghĩa trăm năm với bà Nguyễn Thị Tu sinh 5 người con trai: Nguyễn Tương, Nguyễn Bỗng, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Trương, Nguyễn Trưởng. Ông có  một bà vợ  khác là Nguyễn Thị Đặng sinh Nguyễn Thị Hương.

Ông Nguyễn Nhuận Trung lập gia thất với bà Thái Thị Học sinh 3 người con (2 trai, 1 gái): Nguyễn Họt, Nguyễn Minh, Nguyễn Thị Hạnh.

Ông Nguyễn Nhuận Hiếu cưới vợ là bà Hoàng Thị Nhì sinh ra 4 người con: (2trai, 2 gái): Nguyễn Liệu, Nguyễn Xuân Tường, Nguyễn Thị Ba, Nguyễn Thị Bốn.

Dòng 2: Ông Nguyễn Nhuận Thọ - Nguyễn Thọ có 2 người vợ. 

Người thứ nhất là bà Nguyễn Thị Giàng quê Mỹ Chánh, Quảng Trị, có 2 người con: Nguyễn Thị Thân và Nguyễn Thị Tý.

Người thứ hai là bà Huỳnh Thị Tư quê ở Cần Thơ: sinh 4 người con (1 gái, 3 trai): Nguyễn Thị Thu Hương, Nguyễn Bân, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Minh Lương (sau Nguyễn Bân, có bé Đào, yểu mệnh). 

Các đời tiếp theo, con cháu đã phát triển đông đúc nhưng không chỉ cư ngụ tại Vĩnh Tú, Vĩnh Linh, Quảng Trị mà sinh sống làm việc nhiều nơi như: Huế, Tuy Hòa, Sài Gòn - Tp. Hồ Chí Minh và còn định cư tại nhiều nước như: Pháp, Đức và đảm trách nhiều nhiệm vụ quan trọng. 

Thân tộc họ Nguyễn chúng ta làm việc nhiều ngành khác nhau có người llàm việc ngành Giáo dục, người làm kinh tế, cán bộ ngoại giao, bác sĩ, giáo viên dạy võ,  dịch vụ, nhưng đông nhất là đứng trong hàng ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam, có người đã được phong quân hàm Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.

B. Đặc điểm của dòng họ

1. Truyền thống giữ gìn đạo hiếu và nhân nghĩa

Tổ tiên, con cháu họ Nguyễn Nhuận luôn tôn trọng đạo hiếu, biết ơn tổ tiên ông bà và các thế hệ tiền bối đã sinh thành nuôi dưỡng răn dạy con cháu thành người. Tất cả mọi người trong dòng tộc đều rất tự hào về họ Nguyễn Nhuận. Luôn sống có tâm, có đức, có lòng hướng thiện. Từ người dân thường đến các vị có chức sắc cao đều luôn đề cao chữ Nhân, Nghĩa, Trí, Tín. Các Cụ tổ làm quan đến thời phong kiến đều thanh liêm, giữ chí khí nhà Nho, không màng danh lợi, không o ép dân lành. Các thế hệ con cháu sau này đỗ đạt phấn đấu đến Cục trưởng trong quân đội, Cán bộ cao cấp trong bộ Ngoại giao, Hiệu trưởng, Giáo sư Tiến sỹ Viện trưởng, Bác sĩ, cán bộ nhân viên hay các chức vụ ở huyện, tỉnh đều trong sáng về đạo đức và luôn vì nước vì dân để tiếng thơm cho dòng họ.

Trong họ tôn trọng việc thờ cúng tổ tiên ông bà. Hiện nay chi ông Nguyễn Nhuận Lang chăm lo thờ Cửu huyền thất tổ. Các nhà khác đều lập bàn thờ ông bà, cha mẹ.

Điều đáng nói, là con cháu họ Nguyễn dẫu đi khắp nơi vẫn tìm về tổ quán, tìm hiểu các đời tổ tông. Những bức thư của cụ Nguyễn Nhuận Lang trả lời cho cháu Nguyễn Lâm Thanh con ông Nguyễn Thanh Tùng về cội nguồn với biết bao tình cảm trong thân tộc.

Tại quê nhà Vĩnh Linh, con cháu thường xuyên chăm lo phần mộ ông bà, những ngôi mộ nơi đây xây dựng khang trang theo phong cách địa phương Quảng Trị: bằng xi măng, sơn nước trang nhả. Tại mỗi mộ có bia mộ ghi rõ năm sinh, ngày, tháng, năm từ trần. Những ngôi mộ cổ còn đắp đất nhưng nén chặt, quét nước vôi và đều dựng mộ bia. Hằng năm, vào dịp cuối năm, con cháu họ Nguyễn đều về dãy mã, sửa sang phần mộ. Để ghi nhớ cho các cháu, trong họ lập hai “Mộ gió” cho ông Nguyễn Thọ và Nguyễn Tư Dương.

Tại TP. Hồ Chí Minh, tuy xa quê hương, nhưng con cháu đều tổ chức tìm, cải táng phần mộ ông, cha, sau đó hỏa thiêu và đem tro cốt về nhà thờ phụng hoặc đặt tại chùa.

Trong họ chưa xây nhà Từ đường, nhưng có gian thờ cửu huyền thất tổ tại nhà ông Nguyễn  Nhuận Lang nay là nhà ông Nguyễn Trưởng. Bàn thờ tổ lúc nào cũng được con cháu dâng hương sáng, chiều. Bức hoành phi treo ở giữa nhà “Đức Lưu Phương” như luôn nhắc nhở con cháu lúc nào cũng phải  lưu tiếng thơm trong họ tộc.

Tất cả những điều trên cho thấy sự hiếu thảo của con cháu với tổ tiên. Đó cũng là sự giáo dục thiết thực các thế hệ sau luôn quan tâm đến người đã khuất và cố gắng học tập, làm việc tốt rạng danh dòng họ.

2. Truyền thống cần cù trong lao động

Xuất thân từ nông dân và sống chủ yếu ở nông thôn, Họ Nguyễn Nhuận có truyền thống cần cù trong lao động. Thời xưa, khi chưa có ruộng đất phải đi làm thuê kiếm sống cũng lao động miệt mài tìm kế sinh nhai để tồn tại. Ngày nay, khi nước nhà phát triển bà con họ Nguyễn Nhuận đoàn kết cùng nhau xây dựng gia đình phát triển kinh tế. Lấy sức mình để mà vươn lên, không hề có những suy nghĩ hay việc làm phi pháp. Tấm gương Cụ Nguyễn Thọ là gương sáng của họ tộc trong việc vượt lên hoàn cảnh tìm cách làm ăn.Trong giai đoạn đất nước còn gặp muôn vàn khó khăn Cụ đã dứt áo tạm xa quê hương bản quán mở đường làm ăn, đó là một con người năng động và táo bạo. 

3. Truyền thống hiếu học

Họ Nguyễn Nhuận mà đặc biệt là chi 2 là một chi rất hiếu học, thời phong kiến đã có nhiều người đỗ đạt cao vì vậy mới được ra làm quan giúp đời giúp nước. Con cháu họ Nguyễn Nhuận sau này phát huy truyền thống đó đã không ngừng phấn đấu trong học tập nên đã có nhiều người thành đạt trong các lĩnh vực khoa học. Họ Nguyễn Nhuận có con cháu trở thành Giáo sư Tiến Sĩ như Nguyễn Phục Quốc (TP Hồ Chí Minh).Cử nhân thì rất nhiều (Có khoảng 70 người tốt nghiệp Đại học và sau Đại học). Họ Nguyễn Nhuận đã tổ chức Ban khuyến học của Họ từ rất sớm, con cháu trong họ hiện nay nhiều cháu học giỏi. 

4. Truyền thống yêu nước và cách mạng

Được tổ tiên giáo dục, các thế hệ con cháu trong dòng họ luôn có tinh thần yêu nước sâu sắc. Từ những cụ tổ tham gia triều chính một lòng trung quân ái quốc đến các thế hệ con cháu sau này luôn hun đúc tư tưởng yêu nước. Bao nhiêu thế hệ con cháu đã chiến đấu để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc.

Ông Nguyễn Nhuận Lang (Sinh năm 1910) Hoạt động cách mạng từ rất sớm. Là chiến sĩ cộng sản đầu tiên của thôn Phú Trường. Ông được nhà nước công nhận là Cán bộ tiền khởi nghĩa.

Ông Nguyễn Bân Là cán bộ trong quân đội nhân dân Việt nam có nhiều cống hiến trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ đã từng giữ chức vụ Đại tá Phó Cục trưởng Doanh trại trong quân đội nhân dân Việt Nam.

Ông Nguyễn Minh Lương Là Cán bộ ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và sau này là cán bộ ngoại giao Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (tiền thân là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, ra đời từ năm 1946), luôn sáng suốt trong hoạt động ngoại giao góp sức chiến thắng đế quốc Mỹ. 

Trong họ còn có hàng trăm người tham gia bộ đội, dân quân du kích trực tiếp chiến đấu. Nhiều bà, mẹ, chị không trực tiếp chiến đấu nhưng là cơ sở của cách mạng. Có thể nói sự đóng góp của các thế hệ con cháu họ Nguyễn Nhuận trong kháng chiến và cách mạng là vô giá. 

Ông Nguyễn Phục Quốc- Thiếu tướng QĐND Việt Nam là người tiêu biểu cho thế hệ hiện nay. 

5. Truyền thống gắn bó trong than tộc

Thân tộc Nguyễn Nhuận có mối liên kết gắn bó, trong gia tộc, trước kháng chiến, trong họ có người tiên phong đi lập nghiệp phương xa là ông Nguyễn Thọ, ông là người vượt qua lũy tre làng, chuyển nghề nông và hướng dẫn cho các em là ông Nguyễn Nhuận Bá tức Viên, Nguyễn Tư Dương cùng quản lý công trình xây dựng đường sắt ở Phan Rang, Tuy Hòa.

Kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, lớp con cháu ông Nguyễn  Thọ trực tiếp chiến đấu rồi xa cách quê hương, nhưng khi hòa bình đều tổ chức về thăm quê hương và thông qua phương tiện thông tin mới: điện thoại thăm hỏi tin tức và sức khỏe trong dòng  họ.

Nhìn chung, họ Nguyễn cho đến ngày hôm nay là một dòng họ mang bản chất nông dân. Các bậc tiền nhân là những nông dân chất phát, chịu khó làm ăn và có chí tiến thủ, gắn bó cùng quê hương xóm làng. Cũng chính vì vậy mà các vị tiền nhân đã đồng cảm và dễ dàng đến với cách mạng, tham gia cách mạng để đem lại cơm no áo ấm cho đồng bào và cho chính bản thân mình. Tuy trên thực tế có một số người sau này trở thành những cán bộ cao cấp, nhưng họ vẫn giữ nguyên sự bình dị, chất phát, mộc mạc - bản chất nông dân của dòng họ. Cho đến ngày nay, nhiều thế hệ con cháu họ Nguyễn đã có những đóng góp nhất định cho sự nghiệp chung của dân tộc, cho quê hương Vĩnh Linh, Quảng Trị nói riêng và đất nước nói chung. Thế hệ con cháu hiện nay vẫn tiếp tục truyền thống của cha ông đều có mặt trên các lĩnh vực Quân đội, chính trị, kinh tế, ngoại giao, đoàn thể Mặt trận dân tộc thống nhất tổ quốc,  góp phần dựng xây đất nước. 

Việc dòng họ chủ trương dựng bộ gia phả là một việc làm thiết thực và rất có ý nghĩa, trước hết là để thắt chặt tình cảm bà con trong dòng họ, để con cháu có điều kiện hướng về cội nguồn, tìm hiểu, chiêm nghiệm những lối sống cao đẹp, sự cống hiến cho xã hội và tinh thần lao động cần cù của cha ông trong quá khứ, đó cũng là phương cách giáo dục con cháu một cách hữu hiệu, giúp cho thế hệ ngày hôm nay tin tưởng, tự hào về truyền thống của tổ tiên mình để sống có ích cho gia đình và cho xã hội. 

Các bậc tiền nhân đã thật sự làm rạng danh cho dòng họ. Những cống hiến cho xã hội và nhân cách sống của các bậc tiền nhân trong quá khứ sẽ là niềm tự hào và là sức mạnh tinh thần, luôn đồng hành cùng bước đường lập nghiệp tiến thân của hậu duệ tiếp tục lập nên những kỳ tích, viết tiếp những trang phả đầy tự hào của dòng họ trong tương lai.

IV. PHÁT HUY XÂY DỰNG DÒNG HỌ

Có GIA ĐƯỜNG, GIA PHẢ, trước khí thiêng MỒ MẢ ÔNG BÀ cho phép bộ gia phả đề ra phương hướng xây dựng dòng họ tộc Nguyễn  như sau:

1. Con cháu các thế hệ cùng phấn đấu gìn giữ truyền thống lao động yêu nước quý báu của dòng họ. Duy trì việc thờ cúng ông bà là đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam

2. Xây dựng dòng họ vẹn toàn trong ấm, ngoài êm. Mỗi chi, nhánh, mỗi gia đình phát huy những mặt tích cực đóng góp, xây dựng quê hương giàu đẹp trong đó có họ tộc chúng ta.

3. Duy trì việc chăm lo khuyến học, khuyến nghiệp, khuyến tài một cách thiết thực trong dòng họ.

4. Trong họ tộc cùng chăm lo:

- Nhà thờ họ nghiêm túc.

- Mồ mả khang trang.

- Bộ gia phả hoàn chỉnh, kế tục để bổ sung mãi cho dòng tộc. 

Trước mắt chúng ta cần tổ chức kết nối thường xuyên trong dòng họ Nguyễn để liên kết thông tin cho nhau. Hằng năm, nhân ngày giỗ ông Tổ họ Nguyễn sẽ là ngày Giỗ Họ ở Vĩnh Linh, Quảng Trị. Trong ngày Giỗ Họ sẽ tổ chức nhiều hoạt động như: Liên kết họ Nguyễn trong vùng nhằm mở rộng vòng tay thân tộc, xây dựng quỹ giúp đỡ gia đình gặp khó khăn, quỹ học bỗng cho con cháu học giỏi và chúc thọ các cụ lớn tuổi…

Tất cả những việc làm có ích sẽ gắn bó thân tộc trong mái nhà chung, làm cho dòng họ mãi mãi trường tồn, vinh danh.

Bộ Gia phả nầy hoàn thành vào tháng 8 năm Kỷ Sửu 2009, để luôn cập nhật thông tin thân tộc, cứ 5 năm một lần, con cháu các thế hệ tiếp tục cung cấp diễn biến và phát triển từng chi, nhánh,  bổ sung kịp thời vào Gia phả.

Gia phả tộc Nguyễn chủ yếu lưu truyền trong dòng họ. Trường hợp đặc biệt, những nhà nghiên cứu lịch sử cũng có thể sử dụng tư liệu, sau khi trao đổi với gia tộc.