Trang chủ > 048. Gia phả họ Vi (ấp Bình Hưng, Bạch Đằng, Tân Uyên, Bình Dương)

048. Gia phả họ Vi (ấp Bình Hưng, Bạch Đằng, Tân Uyên, Bình Dương)

19/08/2022 20:04:19

Gia phả họ Vi ở ấp Bình Hưng, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương được Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP.HCM hoàn thành năm 2010.

LỜI NÓI ĐẦU

Nam bộ là vùng đất mới, nơi quần cư của lưu dân Việt ở khắp mọi miền đất nước. Từ xa xưa, đó là những người phản kháng lại chế độ áp bức, thống trị hà khắc của tập đoàn phong kiến Đàng ngoài; là những người phải đi làm lính thú trong các cuộc chiến tranh triền miên; là những người theo lời rủ rê:

Đồng Nai gạo trắng như cò

Bỏ cha bỏ mẹ xuống đò theo anh, 

Vì thế, khi đến được vùng đất mới, họ không ghi chép gia phả để truyền lại cho đời sau, như một cách bảo toàn sinh mệnh cho cháu con. Cho đến trước năm 1954, thật khó tìm ở đâu trên xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên một cuốn gia phả đầy đủ, dù biết bao thế hệ đã sinh trưởng nơi đây.

Thế nhưng, không ghi gia phả, không hẳn là đã quên đi cội nguồn, tổ tiên, nòi giống. Trong tâm trí của người Việt ở đàng Trong, quê hương vẫn biết bao thương nhớ, nói như Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ 

“Vẫn nghe trong máu sầu xa xứ

 Non nước Rồng tiên nặng nhớ thương”, bởi vì: 

“Từ độ mang gươm đi mở cõi

 Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”.

Đó là chuyện ngày xưa, thuở nước mất nhà tan, người người ly tán, tha hương cầu thực.

Bây giờ, núi sông liền một dải. Điều cha ông thuở trước chưa thực hiện được, nay con cháu phải gắng gỏi đáp đền, nhất là việc tìm hiểu tông chi họ hàng, lưu giữ và truyền lại cho muôn đời gốc gác của mình.

Họ Vi ở xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương cũng như những dòng họ khác ở Nam Bộ bao đời chưa có gia phả, dù hàng trăm năm qua, lớp lớp cháu con đã khai phá và thụ hưởng của quê hương rừng thẳm sông dài dòng nước ngọt lành, bát cơm thơm ngát.

Nay, thể theo tâm nguyện thiêng liêng của ông bà tổ tiên qua Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả, con cháu họ Vi hiện tại thực hiện việc biên soạn bộ gia phả của dòng họ.

Có được bộ Gia phả này là nhờ hồng phúc của tổ tiên, hồn thiêng của sông núi quê hương hằng giúp đỡ để Chim có tổ, Người có tông.

Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành gia phả bao gồm nhiều anh chị trí thức tâm huyết đã không quản ngại khó khăn, vất vả, công phu, tỉ mẩn, giúp dòng họ kiếm tìm, phục dựng lại lịch sử họ tộc. 

Gia phả là lịch sử của dòng họ. Lịch sử không bao giờ là những ngày đã qua. Lịch sử là những tháng năm, những con người mà tất cả chúng ta phải nhớ lại. Các lớp con cháu dòng họ Vi về sau hãy soi xét vào Gia phả để nhớ và tự hào về tổ tiên, dòng họ và hãy sống thật xứng đáng để bộ Gia phả này ngày một dày thêm với bao điều vẻ vang, tốt đẹp.

Xã Bạch Đằng, ngày Kỷ Sửu, tháng Tân Tỵ, năm Canh Dần.

Hậu duệ đời V chi II phụng lập

Vi Văn Vũ

 

PHẢ KÝ

Mỗi dòng họ đều được hình thành và phát triển qua nhiều hoàn cảnh khác nhau, có một lịch sử khác nhau. Lịch sử của dòng họ chẳng những có ích cho dòng họ mà còn làm phong phú đa dạng cho lịch sử dân tộc.

Họ Vi ta là một họ rất hiếm trong các dòng họ Việt Nam. Sự có mặt họ Vi ở Nam Bộ vào đầu thế kỷ XIX lại càng hiếm hơn. Nhưng thật sự ông tổ họ Vi đã lập nghiệp tại ấp Bình Hưng, xã Mỹ Hòa (nay là Bạch Đằng), quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) đã gần 200 năm. Ông tổ ta đã sinh sống tại vùng đất này, đã truyền nối dòng họ ta đến nay là đời thứ 7. Quy mô dòng họ tuy không lớn song con cháu họ Vi đã cần cù lao động, chiến đấu chống ngoại xâm góp phần bảo vệ và xây dựng quê hương. Trong quá trình sinh sống họ Vi cũng đã hình thành được những nét văn hóa tốt đẹp của dòng họ để con cháu học tập. Việc viết lại lịch sử họ Vi để con cháu hiểu được cội nguồn, công lao của tổ tiên, truyền thống của dòng họ là điều cần thiết.

I. NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ

1. Truy tìm nguồn gốc dòng họ

Gia phả cổ, di chúc, giấy tờ tương phân ruộng đất, bia mộ cổ là cơ sở để tìm vị cao niên nhất trong dòng họ. Họ Vi không có những tư liệu trên cho nên việc tìm người cao niên nhất trong họ phải dựa vào ký ức của những bậc lão thành trong họ tộc và việc trích lục nguồn gốc đất đai do ông tổ để lại.

Được sự hướng dẫn của ông Vi Văn Vũ, người đại diện dòng họ lập gia phả này, chúng tôi, những người làm gia phả đã đến gặp ông Vi Văn Lèo (cha ông Vũ) là người cao tuổi nhất trong họ. Năm nay ông 85 tuổi nhưng trí óc vẫn còn minh mẫn, ông cho biết cha ông mất sớm vì buồn phiền công việc làm ăn thất bại. Mẹ ông lo làm thuê, làm mướn nuôi 3 chị em ông, không còn thời gian để nói cho con nghe chuyện họ hàng. Khi ông trưởng thành thì lại tham gia cách mạng suốt hai thời kỳ kháng chiến. Gia đình ông không quản lý đất đai thừa tự của dòng họ nên về cội nguồn dòng họ ông không được biết. Tuy nhiên, lúc nhỏ ông có nghe Bác Hai ông (ông Vi Văn Đấu) cho biết ông cố ông tên Vi Văn Thang, sau này ông biết thêm đất ông cố để lại do Bác Hai ông quản lý. Đất ông ở ấp Bình Hưng. Hiện nay cháu của bác Hai ông là bà Vi Thị Bảy làm chủ quyền.

Ngoài thông tin trên của ông Lèo về ông tổ mình, không ai trong dòng họ biết gì hơn ông.

Qua sự cung cấp của ông Lèo giúp con cháu họ Vi biết được tên ông người cao nhất trong dòng họ là Vi Văn Thang, tổ quán họ Vi ở ấp Bình Hưng, xã Mỹ Hòa, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông tổ để lại cho con cháu ông là miếng đất ở ấp Bình Hưng – nơi bà Vi Thị Bảy (đời VI) cất nhà sinh sống ở đó.

2. Trích lục nguồn gốc đất đai

Hy vọng qua luật thừa tự đất đai có thể tìm đời cao hơn. Chúng tôi liên hệ với bà Vi Thị Bảy – người chủ quyền đất ông Sơ của mình. Bà Bảy cho biết bà không phải là người thừa tự, cũng không phải là người được chia phần đất mà bà mua lại của người anh và em trai là Vi Hạnh Huê, Vi Hạnh Châu những người thừa kế tài sản này. Hiện nay, ông Châu về quê vợ ở Long Thành sinh sống sau khi bán đất và ông Vi Hạnh Huê đã qua đời.

Chúng tôi mượn giấy chủ quyền của bà Bảy sao chụp lại rồi cùng ông Vi Văn Vũ (đời V) đi trích lục nguồn gốc đất đai nhưng không có kết quả vì chiến tranh hồ sơ bị thất lạc. Việc tìm đời cao hơn ông Vi Văn Thang không thực hiện được. Do vậy, ông Vi Văn Thang được tạm gọi là ông tổ đời I của họ Vi. Sau này có cơ sở, con cháu tiếp tục tìm đời cao hơn.

Ông Thang từ đâu đến lập nghiệp ở ấp Bình Hưng hay sinh trưởng tại vùng đất này. Đó là vấn đề mà con cháu ông hiện nay không ai biết được. Ông sinh mất năm nào cũng không có tư liệu nào xác định rõ. Mồ mả ông hiện giờ con cháu ông cũng không tìm thấy trên đất của ông hay ở đâu trong ấp Bình Hưng.

Theo qui ước về cách tính tuổi của Trung tâm gia phả thì cứ mỗi thế hệ cách nhau 25 năm và mỗi con cách nhau 2 năm. Căn cứ vào năm sinh của ông Vi Văn Đâu (đời II) là năm 1853 được ghi trên mộ bia ông. Ông Đâu là con trai thứ vậy anh ông Đâu sinh năm 1851 và năm sinh của ông tổ được tính khoảng năm 1826 (1851 – 25) (năm Minh Mạng thứ 14). Đây là thời điểm nước ta còn chủ quyền nhưng chính sách kinh tế đã lỗi thời, chính sách bế quan tỏa cảng đặc biệt là chính sách cấm đạo, giết đạo rất gắt gao của vua Minh Mạng là mầm mống của ngoại xâm. Thời Minh Mạng có 15 chỉ dụ cho di dân từ miền Ngoài vào Nam Bộ để khẩn hoang lập nghiệp.

Không rõ cha ông ông tổ có vào Nam thời Minh Mạng rồi sinh ông tại ấp Bình Hưng hay ông một mình từ miền Ngoài vào hay từ Cù lao Phố đến! Hiện nay chưa có cơ sở nào để xác định thời gian cũng như nguyên nhân ông có mặt tại Bình Hưng. Con cháu ông không ai biết ông sống bằng nghề gì, chỉ biết ông có đất ở ấp Bình Hưng. Đất ông ở ven sông Đồng Nai. Hiện nay, không còn giấy tờ để biết chính xác diện tích đất này. Song theo giấy chủ quyền của bà Vi Thị Bảy thì diện tích bà mua là 750m2 đất thổ cư và một cái nhà của ông tổ.

Đất này ông Vi Hạnh Huê và ông Vi Hạnh Châu còn bán cho người khác nữa, không rõ diện tích bao nhiêu. Ngoài ra, ông tổ còn một miếng đất nữa không rõ bao nhiêu m2 cách đất bà Vi Thị Bảy mua khoảng 1500m. Đất này cũng bị bán đi còn chừa 400m2 để cải táng mộ bị giải tỏa để làm đường giao thông. Hiện chủ quyền 400m2 là bà Vi Thị Kim. Bà Vi Ngọc Liễu chị bà Kim cất một nhà nhỏ ở đây, để thờ cúng cha mẹ. Bà Kim và con trai giữ nhà, bà Liễu thỉnh thoảng về thăm quê có chỗ để ở.

Như vậy đất ông tổ hiện biết được là 1150m2. Diện tích thật sự còn rộng hơn nhiều, bởi vì Vi Hạnh Huê và Vi Hạnh Châu ngoài bán cho bà Vi Thị Bảy còn bán cho người khác nữa. 

Đa số dân sống ở Bình Hưng, ven sông Đồng Nai thì trồng mía, đi ghe chở mướn từ bến đò Bình Hưng qua thị trấn Uyên Hưng hay xuống chợ Biên Hòa. Ông tổ sống bằng cách này chăng?

Về bà tổ, con cháu không biết rõ họ tên, năm sinh, năm mất, quê quán, nghề nghiệp của bà ở đâu hiện con cháu không trả lời được.

Không rõ ông bà hạ sinh bao nhiêu con. 

Theo ông Vi Văn Lèo (đời IV) thì ông tổ có một con trai là Vi Văn Đâu. Nhưng ông cho biết ông có người chị bà con là bà Vi Thị Lớn, buôn bán tạp hóa ở thị trấn Uyên Hưng. Bà Lớn có cùng ông cố với ông nhưng khác ông nội. Bà Lớn không biết tên ông nội mình. Ông nội ông Lèo là Vi Văn Đâu. Ông nội bà Lớn là anh ông nội ông Lèo, là con trai của ông Vi Văn Thang.

Qua phân tích mối quan hệ thân tộc giữa bà Vi Thị Lớn và ông Vi Văn Lèo như trình bày ở trên thì ông bà tổ có hai con trai tạm xếp thứ tự như sau:

Thứ hai : không rõ tên (ông nội bà Vi Thị Lớn)

Thứ ba : Vi Văn Đâu (ông nội ông Vi Văn Lèo)

Hai người con trai này lập gia đình tạo ra hậu duệ đến nay là đời thứ 7.

Hầu hết chi thứ nhất sống ở ấp Bình Cơ, xã Bình Mỹ nay là xã Hội Nghĩa, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương và thị trấn Uyên Hưng.

Chi thứ hai đa số sống ở Bình Hưng, Tân Long, Lạc An, thị trấn Uyên Hưng và thành phố Biên Hòa.

3. Sự phát triển của dòng họ Vi

Ông tổ đời I kết hôn với bà (không rõ họ) có được hai con trai tạo ra hai chi :

* Chi thứ nhất: Vi Văn … không rõ quan hệ hôn nhân với họ nào có được 6 người con, chết nhỏ 4 còn lại 2 người theo thứ tự sau:

Thứ tư : Vi Văn Chuyền

Thứ sáu: Vi Văn Chối

Hai người con này lập gia đình tạo ra thế hệ thứ tư gồm 6 người (3 trai và 3 gái). Ba người con gái lấy chồng sinh con chuyển sang họ khác.

Ba người con trai đời thứ IV là Vi Văn Một (con ông Vi Văn Chuyền), Vi Văn Cải và Vi Văn Mót (con ông Vi Văn Chối) nối dòng cho chi I

● Ông Vi Văn Một có hai đời vợ. Đời vợ thứ I Nguyễn Thị Xờn bệnh qua đời, ông tục huyền với bà Lê Thị Xưa. Ông có hai dòng con gồm 5 người, có 2 con trai và 3 con gái nhưng chết nhỏ 2 con trai nên ông Một không có con nối dòng.

● Vi Văn Cải có vợ 1 con (không rõ họ tên vợ con). Ông Cải đi bộ đội, đã hy sinh được công nhận liệt sĩ. Vợ con bị bom đạn cũng qua đời hết.

● Ông Vi Văn Mót có hai vợ, vợ lớn của ông tên Phạm Thị Bự gốc công nhân như ông. Ông bà quen nhau được cha mẹ cưới cho. Năm 1968, ông bị bắt quân dịch chế độ cũ, đưa đi xa nhà, ông quan hệ không chính thức với bà Nguyễn Thị A. Ông Mót có hai dòng con truyền nối đến nay là đời thứ VI.

Toàn chi thứ nhất có tất cả 36 người chết nhỏ 10 người còn lại 26 người (14 trai và 12 gái). Đã có 7 người qua đời, hiện còn sinh tiền là 19 người (7 trai và 12 gái).

Chi thứ nhất số lượng quá ít, chết nhỏ quá nhiều, con gái nhiều hơn con trai. Tuy số lượng ít nhưng vẫn có con trai nối dòng (hậu duệ ông Mót). Chi này đến đời thứ III chuyển sang lập nghiệp ở ấp Bình Cơ, xã Bình Mỹ, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Hội Nghĩa, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

Thế hệ II, III, IV làm ruộng, đời sống khó khăn. Đời V đa số là công nhân cao su vùng kinh tế mới ở ấp 3, xã Hội Nghĩa, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Lúc mới giải phóng đời sống ở đây vô cùng khó khăn. Hiện nay kinh tế ổn định, các con ông Mót ngoài lương công nhân nhà nước, nhà nào cũng có ít nhất 1 mẫu cao su đang cho mủ. Chi này chỉ có bà Vi Thị Lớn có tiệm buôn thực phẩm lớn ở thị trấn Uyên Hưng và các con bà đời sống khá giả, còn hầu hết mới ổn định cuộc sống. Việc học hành chi này thấp. Ông Mót có hai dòng con, ông bị bắt quân dịch nên không cùng vợ nào chăm lo giáo dục, hướng nghiệp cho con. Hy vọng các thế hệ sau tốt hơn.

* Chi thứ hai: trưởng chi là ông Vi Văn Đâu. Ông lập gia đình với bà họ Phan hạ sinh 3 con: 2 trai 1 gái. Con gái là Vi Thị Mai qua đời lúc 20 tuổi, còn độc thân. Hai con trai là Vi Văn Đấu và Vi Văn Dẹp.

Ông Đấu lập gia đình với bà Nguyễn Thị Kiệu. Ông Dẹp cưới bà Võ Thị Dung nối dòng cho chi thứ II. Hậu duệ ông Đấu truyền nối đến nay là đời thứ VII. Hậu duệ ông Dẹp chỉ mới đến đời thứ VI. Toàn chi có 43 người, chết nhỏ 4, còn lại 39 người (23 trai và 16 gái). Trong số này qua đời hết 10 người (8 trai và 2 gái). Hiện còn sinh tiền là 29 người (16 trai và 13 gái).

Số lượng chi II phát triển đông hơn, chết nhỏ cũng ít. Chi này cũng có con trai nối dòng.

Nhìn chung đời sống kinh tế và việc học hành phát triển hơn song không đều.

Quản lý đất đai ông tổ là ông Vi Văn Đấu (đời III). Ông có 1 con trai và 2 cháu nội là Vi Hạnh Điểu và Vi Ngọc Đẹp. Hai anh em này cùng cha khác mẹ. Ông Điểu là con ngoại hôn của ông Vi Văn Đê, có đông con hơn, các con ông Điểu không được học hành, hướng nghiệp nên đến đời thứ VI Vi Hạnh Huê, Vi Hạnh Châu thừa kế đất đai ông tổ nhưng không lao động, không nghề nghiệp, nghèo khó, bệnh tật phải bán đất, bán nhà ông tổ, người thì qua đời, người thì rời bỏ quê hương sang quê vợ sinh sống ở Long Thành. Con cháu ông Điểu đời sống bấp bênh. Riêng ông Vi Ngọc Đẹp được mẹ buôn bán cho con ăn học đến đại học, tậu thêm đất đai ở quê mẹ là xã Lạc An nên đời sống của ông Đẹp và con cháu ông rất khá. Ông Đẹp là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.

Ông Vi Văn Dẹp (đời III) là con thứ ba của ông Vi Văn Đâu, đời sống kinh tế gia đình ông khó khăn, ông lại qua đời sớm nhưng nhờ vợ ông là bà Võ Thị Dung làm thuê, làm mướn chăm lo nuôi dạy con, cho con ăn học và làm cách mạng suốt hai thời kỳ kháng chiến. Con cháu ông Dẹp hầu hết đều có nghề nghiệp ổn định. Việc học hành đời V, VI đạt đến trình độ cao, từ tốt nghiệp lớp 12 đến học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ.

Nhờ sống trong môi trường cách mạng lại được cha mẹ toàn tâm toàn ý dạy dỗ con và sống gương mẫu với con cháu, nên hậu duệ ông Dẹp đều phát triển về kinh tế lẫn học tập. 

Toàn dòng họ có 78 người. Hiện còn 46 người (23 trai 23 gái). Đây là dòng họ có quy mô nhỏ song chi nào cũng có con nối dòng. Quan hệ hai chi ít qua lại, không có giỗ tổ, không có giỗ họ. Việc giỗ chạp tự gia đình lo lấy.

II. HÔN NHÂN VÀ QUAN HỆ THÂN THÍCH

Hôn nhân tạo ra gia đình là nơi con người được sinh ra và lớn lên để có các thế hệ nối tiếp tạo ra dòng họ.

Ngoại trừ ông tổ đời 1, 2 con cháu không biết được các ông kết hôn với các bà mang họ nào. Từ đời III đến đời VI họ Vi quan hệ hôn nhân với các họ Phan, Nguyễn, Phạm, Trần, Hồ, Trương, Lý, Hà, Đặng, Võ tạo ra quan hệ huyết thống gồm 46 người là một lực lượng lao động khỏe mạnh gồm nhiều thành phần trong xã hội mà gốc là nông dân và nhân dân lao động nghèo. Do vậy, mà gia đình họ Vi thuộc gia đình rất bình dân, không phải thuộc gia đình nho giáo, nệ cổ. Dòng họ tiếp thu mặt tích cực của lễ giáo phong kiến trong quan hệ hôn nhân và giáo dục gia đình.

Hôn nhân đời I, II, III phần lớn do cha mẹ quyết định. Đến đời IV, V hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính song vẫn có vai trò của ông bà, cha mẹ đứng ra cưới hỏi. 

Vai trò của các cô dâu họ Vi cũng rất quan trọng. Ngoại trừ các cô dâu đời I, II không được biết lai lịch đạo đức ra sao, còn lại từ đời III, đời IV đều là dâu hiền, gốc nông dân, nhân dân lao động nghèo (dân vùng kinh tế mới) và gốc gia đình cách mạng. Tất cả đều lao động, cày thuê gặt mướn buôn gánh bán bưng cùng chồng nuôi dạy con, lo phụng sự nhà chồng. Tiêu biểu là bà Võ Thị Dung – vợ ông Vi Văn Dẹp, chồng mất sớm để lại cho bà ba đứa con thơ, không đất đai bà phải cày thuê, gặt mướn, nhổ cỏ ruộng, làm cỏ vườn nuôi ba con. Riêng người con trai út của bà là ông Vi Văn Lèo được học hết tiểu học chương trình Pháp. Thời ấy, học hết tiểu học trường làng là rất hiếm. Trong thời kỳ đánh Pháp, cả gia đình bà vào trong chiến khu để vừa sản xuất vừa làm công tác cách mạng.

Tuổi già bà sống gương mẫu, nhắc nhở dạy dỗ con cháu cho đến lúc mãn phần nên con cháu bà là những người thành đạt, có đạo đức và lối sống tốt.

Bà Phạm Thị Bự, vợ lớn của ông Vi Văn Mót chồng có vợ bé, một mình bà nuôi dạy 8 người con. Bà lao động khó nhọc khai hoang và mua thêm đất đai cho con. Tất cả các con đều trưởng thành có cuộc sống tạm ổn ở khu kinh tế xã Hội Nghĩa. Các chú rể họ Vi cũng là rể thảo, biết lo cho gia đình bên vợ.

Con cháu họ Vi không sùng bái một tôn giáo nào, chỉ coi trọng đạo hiếu. Ông bà cha mẹ nhắc nhở con cháu biết kính trên nhường dưới, hiếu thảo với cha mẹ, anh em hòa thuận nhau. Gia đình cách mạng thì bồi dưỡng tư tưởng cách mạng cho con. Trong dòng họ chưa có điều kiện để thắt chặt tình đoàn kết, để xây dựng dòng họ mình tốt hơn.

III. TỔ QUÁN HỌ VI XƯA VÀ NAY

Bình Hưng là một trong sáu ấp của xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Đó là tổ quán của họ Vi.

Hiện nay ấp Bình Hưng có vị trí sau :

● Phía Bắc giáp thị trấn Uyên Hưng.

● Phía Nam giáp ấp Tân Trạch và Tân Long.

● Phía Tây giáp sông Đồng Nai

● Phía Đông giáp ấp Điều Hòa.

 Xã Mỹ Hòa xưa, nay là xã Bạch Đằng là một vùng đất cù lao bồng bềnh trên sông nước Đồng Nai. Đây là vùng đất cổ phì nhiêu, được bao bọc và bồi đắp bởi phù sa sông Đồng Nai. Xã Bạch Đằng là 1 trong 20 xã của huyện Tân Uyên trong đó có ấp Bình Hưng được hình thành rất sớm từ sự hình thành của huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Tân Uyên là một địa danh của vùng đất Đồng Nai xưa và nay là một huyện phía Nam của tỉnh Bình Dương. Địa hình Tân Uyên thấp, đất Tân Uyên là đất xám bazan, có hai con sông lớn là sông Đồng Nai và Sông Bé chảy qua bồi đắp thành những vùng đồng bằng phì nhiêu.

Lớp cư dân của Tân Uyên là vùng đất Thuận Quảng vào khai phá vùng đất Nam Bộ (Đồng Nai, Gia Định). Từ cuối thế kỷ XVI liên tục suốt thế kỷ XVII và các thế kỷ sau, họ đi từ lẻ tẻ, rời rạc dần dần có qui mô lớn hơn nhất là sau khi các chúa Nguyễn đã tạo ra ảnh hưởng của mình trên vùng đất này. Họ là những người dân vùng Thuận Quảng không chịu nổi cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn kéo dài 175 năm. Tất cả nhân tài vật lực bị ném vào chiến tranh. Thành phần phiêu bạt xuống phương Nam là những nông dân nghèo khổ, những tù nhân bị lưu đày, những binh lính đào ngũ, những người trốn xâu lậu thuế. Chiến tranh càng khốc liệt thì làm sóng di cư càng diễn ra liên tục và ồ ạt. Họ đi bằng đường bộ, đường biển. Điểm dừng chân đầu tiên là Môi Xuy (Mô Xoài – Bà Rịa) rồi từ đó tiến dần vào Đồng Nai. Những địa bàn cư trú sớm nhất là vùng phù sa cổ ven sông Đồng Nai như: cù lao Tân Chánh (còn gọi là cù lao 6 làng), cù lao Phố, cù lao Tân Triều… vì những nơi đây có nước ngọt tiện cho việc sinh sống. Tuy đất rộng, phì nhiêu song lưu dân phải đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt để có điểm định cư.

Đồng Nai xứ sở hãi hùng

Dưới chân sấu lội, trên rừng cọp um.

Khi đất Đồng Nai tương đối đông người thì triều đình nhà Nguyễn cử Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính vào xây dựng tổ chức chính quyền, phân chia ranh giới, thiết lập bộ máy hành chánh lấy vùng Đồng Nai lập huyện Phước Long thuộc dinh trấn Biên Hòa, lấy vùng Sài Gòn – Gia Định lập huyện Tân Bình thuộc dinh Phiên Trấn rồi lập ra những xã, thôn, ấp, lập địa bạ thì thôn Bình Hưng đã ra đời có vị trí diện tích đất đai được phân ra từng loại, đã có đo đạc kỹ, chính xác.

Năm 1836, vua Minh Mạng cho lập địa bạ thì thôn Bình Hưng được ghi sau:

Bình Hưng thôn ở xứ Bờ Lao (Bồ Mưu)

- Đông giáp sông lớn lấy giữa lòng sông làm giới

- Tây giáp sông lớn lấy giữa lòng sông làm giới

- Nam giáp các thôn Tân Trạch, Tân Trúc, Điều Hòa có lập cột gỗ làm giới

- Bắc giáp sông lớn, lấy giữa sông làm giới.

“Thực canh ruộng đất : 34.1.13.1

Diện tô điền : 7.8.1.0 (17 sở, thôn Tân Hòa)

DC : 0.5.0.0 và B 7 DC: 0.5.7.5 gồm 4 sở : 0.1.7.5

Đất trồng dâu, mía : 26.3.12.1 (58 sở)

Dân cư thổ : 1.0.0.0

Mộ địa : 1 khoảnh” 

Bình Hưng ra đời sớm vẫn giữ địa danh qua bao sự thay đổi của đơn vị hành chánh mà nó trực thuộc.

Từ năm 1808 đến năm 1862, thôn Bình Hưng thuộc tổng Chánh Mỹ, trấn Biên Hòa, phủ Phước Long.

Từ năm 1863 – 1867 thôn Bình Hưng được đổi thành làng Bình Hưng thuộc tổng Chánh Mỹ Trung thuộc hạt Biên Hòa.

Năm 1859 khi hạt đổi thành tỉnh thì làng Bình Hưng thuộc tổng Chánh Mỹ Trung, huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa.

Từ năm 1865 – 1925 cù lao Tân Chánh được chia làm 2 xã : Mỹ Hòa và Mỹ Qưới thì ấp Bình Hưng thuộc xã Mỹ Hòa.

Tháng 10/1975 xã Mỹ Hòa và Mỹ Qưới nhập lại thành xã Bạch Đằng thì ấp Bình Hưng trở thành ấp 1. Năm 1976, tỉnh Biên Hòa chia ra làm 3 tỉnh : Sông Bé, Đồng Nai, Bà Rịa thì ấp 1 thuộc xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé.

Năm 2006, ấp 1 đổi lại là ấp Bình Hưng vẫn thuộc xã Bạch Đằng.

Ấp Bình Hưng nói riêng và xã Bạch Đằng nói chung do bàn tay lao động của những người nông dân và nhân dân lao động nghèo khó từ Đàng Ngoài vào từ thế kỷ XVII đã lao động cật lực biến vùng đất hoang vu thành vùng đất mầu mỡ, đồng ruộng phì nhiêu, cây lành trái ngọt, cảnh quang xinh đẹp. Bà con đã xây dựng tình làng nghĩa xóm khó khăn, gian khổ có nhau. Nên trong chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những người đi tìm tự do đã mang theo vốn quý là truyền thống yêu nước tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc họ đã trực tiếp hay gián tiếp chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ quê hương, bảo vệ thành quả lao động của mình.

Hòa bình đã lập lại, hơn 30 năm qua, nhân dân trong ấp đã khắc phục được hậu quả chiến tranh, từng bước xây dựng ấp Bình Hưng thành ấp văn hóa. Hiện nay, ấp Bình Hưng được xây dựng theo mô hình nông thôn mới với diện tích chung là 225, 56 ha, dân số 1.473 người, có 380 hộ, kinh tế chính là nông nghiệp, trong đó cây bưởi là thế mạnh, hiệu quả cao. Tương lai cây bưởi đang phát triển làm tiền đề cho việc hình thành khu du lịch vườn. Toàn ấp có 92 ha vườn trồng bưởi. Kinh tế phụ chăn nuôi heo, bò, gà vịt. Ấp có 1 đình là đình Bình Hưng, có 1 chùa, 1 tịnh xá, 1 hộ theo đạo Cao Đài, trong ấp không có đạo Thiên chúa giáo, có 1 ngôi nhà cổ.

Trong hai cuộc đấu tranh chống Pháp và Mỹ, toàn ấp có 46 liệt sĩ, có 3 bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Ấp có 1 trường tiểu học, có điện nước đầy đủ. Hiện nay, ấp Bình Hưng nằm trong kế hoạch của xã Bạch Đằng đầu tư xây dựng thành nông thôn mới.

IV. SỰ ĐÓNG GÓP CỦA DÒNG HỌ CHO QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC

1. Bối cảnh lịch sử

Sự ra đời và trưởng thành của tổ tiên họ Vi các đời I, II, III (1826 – 1884) nằm trong quá trình suy yếu của triều đại phong kiến nhà Nguyễn dẫn đến bị thực dân Pháp xâm lược. Năm 1858, tiếng súng của Pháp bắn vào cửa bể Đà Nẳng mở đầu cho chúng xâm lược nước ta. Năm 1862 hòa ước Nhâm Tuất được ký giữa Pháp và triều đình Huế thì 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường đã lọt vào tay thực dân Pháp. Năm 1884, theo hòa ước Patenôtre thì nước ta hoàn toàn mất chủ quyền. Miền Nam theo chế độ thuộc địa, Miền Bắc và Miền Trung theo chế độ bảo hộ của thực dân Pháp. Triều đình Huế chỉ là bù nhìn.

Miền Nam bị thực dân Pháp khai thác bóc lột nặng nề, sưu cao thuế nặng. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp và tay sai nổi lên. Nhân dân xã Mỹ Hòa đã có những cuộc đấu tranh lẻ tẻ với vũ khí thô sơ tự tạo đánh Pháp theo lối du kích rồi phong trào Thiên Địa Hội thu hút thanh niên xã tham gia. Các ông đời I, II, III là nhân chứng của lịch sử. Các ông không có tham gia phong trào chống Pháp của các sĩ phu hay các tổ chức chống Pháp tại xã.

Từ khi có Đảng, nhân dân xã Mỹ Hòa, Mỹ Qưới (nay là xã Bạch Đằng) đứng lên chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ông Nguyễn Văn Nghĩa đảng viên của huyện Tân Uyên đã tuyên truyền giác ngộ nhân dân Mỹ Hòa cùng đảng viên tại xã là ông Huỳnh Văn Lũy gây cơ sở tại xã, tập hợp lực lượng thanh niên, huấn luyện quân sự gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa và cùng cả nước giành được chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Chiến tranh Thế giới thứ Hai chấm dứt, Pháp được sự giúp sức của đồng minh tái chiếm lại nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, cả nước đứng lên làm cuộc kháng chiến 9 năm.

Nhân dân Mỹ Hòa, Mỹ Qưới dưới sự lãnh đạo của chi bộ đảng đấu tranh chống Pháp. Đây là thời kỳ thực dân Pháp tăng cường xây dựng đồn bót, ra sức đàn áp nhân dân trong xã, chúng chiếm đình Tân Trạch xây dựng thành căn cứ quân sự để tập trung quân hòng dập tắt kịp thời những cuộc đấu tranh của nhân dân trong xã. Chúng xây tua An Chữ, bót Tân Trạch nhằm kiểm soát ta và trấn áp những cuộc đấu tranh của ta. Chúng giết hại biết bao những người yêu nước và nhân dân vô tội, khét tiếng là tên tây Roi-Dóc chuyên đánh người bằng roi đánh ngựa rất dã man và hãm hiếp phụ nữ.

Đình Bình Hưng đã chứng kiến ông Nguyễn Văn Tỷ (chủ tịch xã) ông Cao Tấn Lô (thư ký) đang họp tại đình bị giết, nhân dân vô tội bị thảm sát. Hiện có bia ghi nhân dân bị thảm sát, ở đình Bình Hưng. Nhân dân trong xã, ai không chịu nổi thì phải đi nơi khác làm ăn, một số vào chiến khu để an toàn vừa chiến đấu vừa sản xuất. Những người bám trụ ở lại xã, che chở đùm bọc những người làm cách mạng để đạt được thắng lợi. 

Với lòng yêu nước, lòng căm thù giặc lại được sự lãnh đạo đúng đắn của chi bộ Đảng, nhân dân trong xã cũng đã kết thúc thắng lợi qua 9 năm kháng chiến. Nhưng Mỹ đã can thiệp vào Hiệp định Genève, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Chúng dựng lên chính phủ bù nhìn dùng quốc sách ấp chiến lược, thuốc khai hoang để tìm diệt những người làm cách mạng, dùng vũ khí tối tân để thực hiện chiến tranh cục bộ hòng giành thắng lợi nhanh chóng.

Dù đói ăn, thiếu mặc, dù bị tù đày, bị đánh đập tra khảo dã man, nhân dân trong xã vẫn đào hầm bí mật, nuôi giấu cán bộ, trực diện đấu tranh bằng chính trị, binh vận để cuối cùng thắng lợi vẻ vang, giải phóng được xã nhà.

2. Sự đóng góp của dòng họ cho quê hương

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã có phần đóng góp của họ Vi:

* Chi thứ nhất: ông Vi Văn Cải (đời IV) đi bộ đội ông Huỳnh Văn Nghệ trong thời kỳ chống Pháp, bí danh là Hồng Vi Hải. Ông đã hy sinh trong trận đánh sông La Ngà, được công nhận liệt sĩ. Vợ con ông bị bom đạn cũng qua đời luôn. Bà Vi Thị Lớn làm giao liên sau lấy chồng là bộ đội đơn vị 330 ở Tân Uyên. Ông bà tham gia suốt hai kỳ kháng chiến.

* Chi thứ hai: Ông Vi Văn Lèo (đời IV) đã tham gia cách mạng ở địa phương trong thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Thời kháng chiến 9 năm ông đưa cả gia đình mẹ, chị, anh rể vào chiến khu vừa sản xuất vừa chiến đấu. Đến thời kỳ chống Mỹ, ông và vợ là bà Nguyễn Thị Mót hoạt động công khai: vừa buôn bán vừa tiếp tế lương thực, thuốc men và những thứ chiến khu cần. Các con làm tình báo viên cho cơ sở của xã.

Khi hòa bình, cả gia đình ông đều đem hết nhiệt tình ra xây dựng xã Mỹ Hòa.

Ông Lèo làm Chủ tịch xã, vợ ông làm Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Mỹ Hòa, con trai là ông Vi Văn Vũ phụ trách thanh niên, văn hóa ở xã và là Bí thư Đoàn thanh niên xã nhà.

Bà con họ Vi ra sức lao động để cải thiện cuộc sống, làm nhiều nghề khác nhau. Một số bà con chi I đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Hội Nghĩa góp phần xây dựng quê hương.

Họ Vi hiện nay ai cũng có việc làm, không ai làm điều gì để xã hội phê phán cũng không ai tham gia chính quyền cũ, gây phương hại đến nhân dân. 

V. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA DÒNG HỌ

Họ Vi là một họ rất hiếm ở Nam Bộ lại sống trên vùng đất cù lao của sông Đồng Nai và do sông Đồng Nai bồi đắp lại càng hiếm hơn. Ông tổ đời I đã lập nghiệp tại ấp Bình Hưng, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truyền tử lưu tôn đến nay là đời thứ VII. Qua lao động bảo vệ và xây dựng quê hương, họ Vi đã hình thành được những phẩm chất đạo đức tốt đẹp để con cháu noi gương như sau:

● Con cháu họ Vi có dáng người trung bình, mũi cao, gương mặt sáng sủa, cả nam lẫn nữ đều đẹp. Họ Vi có gốc nông dân, có lối sống giản dị, chân thật, vui vẻ và rất lịch sự trong giao tiếp. Dù ở địa vị nào, họ Vi cũng giữ tính tình bình dị, gần gủi, thân thiện. Đó là điểm rất đáng quý, đáng được trân trọng.

● Con cháu họ Vi là những người lao động cần cù, lạc quan trong cuộc sống. Ông tổ đời I có chút đất đai, ông vẫn phải trực tiếp canh tác và làm thêm những việc khác để sống. Ông Vi Văn Đâu (đời II) thừa kế đất song phải đi ghe chở mướn trên sông Đồng Nai, từ bến đò Bình Hưng, đi Tân Uyên xuống chợ Biên Hòa có lúc cũng xuôi xuống miền Tây, ông còn câu tôm, câu cá ở bến sông Đồng Nai để cải thiện thêm cuộc sống.

Từ đời III đến đời VI con cháu họ Vi phần lớn là những người nông dân không đất phải cày thuê gặt mướn, bắt ốc đãi hến ở sông để nuôi vịt, có người buôn từng quày chuối buồng cau để kiếm sống. Có người bán nước đá, nước giải khát, thức ăn sáng, làm thợ máy, thợ hồ, chạy xe tắc xi, làm vườn, làm công nhân, dạy học và cũng có người là tiểu thương, tiểu chủ, là cán bộ cao cấp của Đảng và nhà nước thuộc cấp tỉnh. Hiện không có ai làm nghề gì phương hại đến danh dự dòng họ hay xã hội. Đó là ưu điểm của dòng họ, cần được phát huy.

● Điểm đáng quý nữa của họ Vi là tấm lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Họ Vi không có nhà thờ tổ song nhà nào cũng có bàn thờ để thờ ông bà mình. Việc giỗ ông bà cũng được con cháu tiến hành nghiêm túc theo sự phân công của gia đình. Việc chăm sóc mồ mả ông bà trong thời chiến cũng như thời bình con cháu vẫn chăm lo chu đáo: dãy cỏ, đốt nhang vào dịp tết hay thanh minh. 

Sau chiến tranh, con cháu xây lại mộ ông bà khang trang hơn. Riêng mộ ông bà tổ hiện nay không rõ ở đâu và ngày giỗ không rõ là ngày nào. Đó là điều mà ngày nay con cháu rất băn khoăn, trăn trở.

Việc chăm sóc cha mẹ già yếu đã trở thành bổn phận của con cháu. Ông Vi Văn Lèo và bà Nguyễn Thị Mót già yếu, bệnh hoạn được các con trai, gái luân phiên chăm sóc và tổ chức mừng thượng thọ. Con cháu dù ở địa vị nào trong ngày thượng thọ của cha mẹ cũng cung kính lạy mừng thọ cha mẹ.

Đây là những nét đẹp trong văn hóa dòng họ Vi.

● Một ưu điểm nữa của dòng họ là tinh thần hiếu học. Trong thời chống Mỹ, gia đình ông Lèo kinh tế khó khăn, ông bà lại làm cách mạng song ông vẫn cho các con đi học và các con học rất giỏi. Ông Vi Văn Bưu là kỹ sư nông nghiệp, ông Vi Văn Vũ vừa công tác vừa học và đã có học vị Tiến sĩ. Các con ông Vũ cũng học rất giỏi. Ông Vi Ngọc Đẹp con ông Vi Văn Đê thời chiến tranh phải tản cư xuống chợ Biên Hòa sinh sống. Mẹ ông lo tảo tần buồn bán song vẫn lo cho ông ăn học. Ông đã đậu vào trường Đại học Phú Thọ (Đại học Bách Khoa ngày nay) nhưng do điều kiện khách quan nên ông không tiếp tục học hết đại học. Thời đó đậu vào trường Đại học phải là học sinh giỏi.

● Sự nhiệt tình cách mạng là điểm đáng tự hào của con cháu. Dòng họ Vi quy mô nhỏ song cả hai chi đều có sự cống hiến cho cách mạng từ tuổi thanh niên.

Ông Vi Văn Lèo (đời IV), chi II, là con trai duy nhất của ông Vi Văn Dẹp. Ông Vi Văn Cải (đời IV), chi I, là con trai trưởng của ông Vi Văn Chối. Ông Lèo và ông Cải theo cách mạng từ hồi thanh niên. Ông Cải đã hy sinh anh dũng và trở thành liệt sĩ khi tuổi còn thanh xuân. Ông Lèo thoát ly vào chiến khu trong thời kỳ chống Pháp, đem theo cả mẹ và chị. Ông lập gia đình trong chiến khu, cùng vợ làm cách mạng suốt hai thời kỳ kháng chiến, dù bệnh hoạn, dù địch theo dõi song nhiệt tình cách mạng vẫn không đổi.

Ông Vi Văn Vũ con trai ông Lèo, sau giải phóng cũng đã đóng góp hết sức mình cho việc ổn định và xây dựng quê hương xã nhà và không ngừng học tập để nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn để trở thành một cán bộ tổ chức giỏi của tỉnh Đồng Nai, ông đã có được những huân chương cao quý của Đảng và nhà nước.

Tất cả những ưu điểm của họ Vi đáng được con cháu trân trọng và phát huy để làm vinh danh dòng họ và góp phần vào việc xây dựng quê hương đất nước.

VI. XÂY DỰNG DÒNG HỌ

Bên cạnh những ưu điểm, họ Vi cũng còn những tồn tại cần xây dựng các vấn đề sau:

- Dòng họ Vi chưa có điều kiện để tạo sự đoàn kết gắn bó nhau trong họ tộc.

- Đời sống trong họ phát triển không đồng đều, có người còn gặp khó khăn trong việc mưu sinh.

- Việc học hành các cháu, mỗi gia đình tự lo nên có gia đình còn khó khăn, không đủ điều kiện học lên cao. 

Nhằm để khắc phục những tồn tại trên họ Vi nên phổ biến gia phả đến bà con để trong dòng họ biết nguồn gốc, quan hệ họ hàng và truyền thống tốt đẹp của dòng họ, cũng nên lập hội đồng gia tộc qua đó dòng họ gặp nhau thường xuyên cùng nhau lo việc xây dựng dòng họ cụ thể như:

* Vận động bà con trong họ lập quỹ khuyến học để hỗ trợ các cháu hiếu học có hoàn cảnh khó khăn được tiếp tục học lên cao.

* Tổ chức khen thưởng những cháu học giỏi nhằm phát huy tài năng để cống hiến cho đất nước, làm vinh danh cho dòng họ.

* Việc giúp nhau trong công ăn việc làm cũng rất cần thiết vì hiện nay con cháu cuộc sống còn bấp bênh.

* Con cháu họ Vi nên xây lại mộ tổ, định lại ngày giỗ. Nếu có điều kiện nên xây nhà thờ họ để con cháu họ Vi có nơi tập họp để cùng ôn lại những truyền thống tốt đẹp của dòng họ mình, đồng thời thăm hỏi nhau, khen thưởng, động viên các cháu trong học tập để xây dựng dòng họ mình ngày một tốt đẹp hơn.

Lớp hậu duệ xin chân thành kính dâng lên tổ tiên lòng tri ân, lòng hiếu thảo, nguyện lao động, học tập để làm rạng danh dòng họ.