Trang chủ > 053. Gia phả họ Ngô (ấp Ông Vui, Trung Lập Thượng, Củ Chi, TP.HCM)

053. Gia phả họ Ngô (ấp Ông Vui, Trung Lập Thượng, Củ Chi, TP.HCM)

19/08/2022 21:17:41

Gia phả họ Ngô ở  ấp Ông Vui xã Trung Lập Thượng, huyện Củ Chi, TP.HCM được Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP.HCM hoàn thành năm 2011.

LỜI TỰA

Như 26 dòng họ khác nhau ở ấp Trung Hiệp Thạnh, xã Trung Lập Thương, huyện Củ Chi, TP. HCM, từ sau ngày đất nước hòa bình gia đình sum họp, họ tộc Ngô muốn tìm biết cội nguồn, tưởng nhớ tổ tiên của dòng họ là ông Ngô Văn Vui đã cùng nhiều vị tiền hiền có công đầu khai khẩn vùng đất này, được đặt tên là ấp Ông Vui, vừa là ông Tổ sinh con đẻ cháu đến nay đã được 9 đời cho tộc họ Ngô.

Từ nhiều năm qua, ông Ngô Văn Cơ và nhiều người tâm huyết trong họ đã ra sức tìm tồi, mày mò lập được Bảng Tông Chi (tóm tắt) có đủ 5 chi 8 đời. Nhưng chúng tôi chưa thỏa mãn vì nghĩ rằng mỗi vị quá cố có tên đều có những việc làm ích nước lợi nhà, trong đó có những vị có công lao lớn chưa được ghi lại để con cháu sau này biết mà nhớ ơn, mà tự hào về tổ tiên mình.

Chúng tôi nhờ Trung Tâm Nghiên Cứu và Thực Hành gia phả TP. HCM dựng bộ gia phả hoàn chỉnh cho họ Ngô lần đầu từ năm 2001. Đây là lần bổ sung và như dựng mới lại.  Vì bộ gia phả sẽ lý giải rõ ràng mối quan hệ vai thứ, năm sinh ngày mất (giỗ), mộ phần tổ tiên ông bà, kết nối nhà từ đường và mồ mã thành thế kiềng ba chân vững chắc của một họ tộc phát triển ổn định trường tồn - họ tộc văn hóa. Nhờ biết đích xác năm sinh của ông Hai Ngô Văn Hội: 1840, từ đó theo cách tính của gia phả học (mỗi thế hệ (đời) cách nhau khoảng 25 năm, mỗi người con trong gia đình cách nhau khoảng 2 năm) chúng ta có thể tính được tuổi của ông Tổ (đời I) và các ông đời II , III. Giá trị đặc biệt của bộ gia phả là để chúng ta tri ân tổ tiên về để lưu truyền, giáo dục con cháu sau này. Vì theo quy luật của tình cảm: có biết mới yêu thương, có yêu thương mới ra sức giữ gìn, bảo vệ. Yêu kính tổ tiên đương nhiên càng phải yêu thương, đùm bọc những người cùng huyết thống, cùng con cháu của tổ tiên. Đó là cách giữ gìn truyền thống họ tộc, báo hiếu tổ tiên.  

Đều đáng mừng là họ tộc Ngô ấp Ông Vui đã có nhà từ đường khang trang, phần lớn mồ mã tổ tiên ông bà đã được tôn tạo, nay có bộ gia phả sẽ góp phần giữ vững họ tộc vĩnh truyền.

Bộ gia phả có bố cục :

1. Chính Phả 

- Lời tựa

- Phả ký

- Phả hệ

- Phả đồ

2. Ngoại Phả và Phụ khảo

Dựng được bộ gia phả của tộc là công lao, sức lực tập thể của bà con cô bác trong họ cùng với sự nổ lực hết mình của các chuyên gia gia phả. Nhân đây, chúng tôi chân thành cám ơn tất cả bà con cô bác trong họ tộc, cám ơn Trung Tâm nghiên cứu và Thực hành gia phả TP, HCM đã vì sự nghiệp của tiền nhân mà cố gắng hoàn thành công trình có giá trị để đời này.

Bộ gia phả là gia bảo của họ tộc, sẽ được những hậu duệ họ tộc trân trọng giữ gìn tại nhà từ đường và tại nhà các vị đại diện 5 chi để đọc cho con cháu nghe trong ngày giỗ chạp, và sau 5 năm sẽ ghi bổ sung vào (những con cháu mới sinh, những người thành đạt, dâu rễ mới và những người qua đời) để được nối truyền mãi mãi. 

Bộ gia phả này chủ yếu sử dụng trong nội bộ dòng họ, song những nhà khoa học cũng có thể tham khảo.

Đầu Xuân Tân Mão 2011

Đại diện họ tộc Ngô ấp Ông Vui

Ngô Văn Cơ (Đời V)

Ngô Trung Kiên (Đời VI)

 

PHẢ KÝ

Sau khi đất nước hòa bình, gia đình sum họp, dòng họ tìm đến nhau thì y như rằng dòng họ nào cũng có nhu cầu tha thiết muốn biết cội nguồn : Tổ tiên của mình là ai ? Từ đâu đến ? lập nghiệp trên mảnh đất này từ lúc nào ? Trong hoàn cảnh biến thiên của lịch sử dân tộc, liên miên có chiến tranh với bao đau thương mất mát, chia lìa, nhu cầu chính đáng và thiên liêng này mỗi ngày như càng thôi thúc một cách âm thầm mà mảnh liệt trong mỗi người con cháu còn mang trong mình dòng máu Tổ tiên mình.

Lịch sử gia đình họ tộc là có thật, nối tiếp từ đời này sang đời khác như dòng chảy lịch sử quốc gia : Nước có Sử, Nhà có Phả. Nhưng thực tế hiện nay, mỗi người con cháu của họ tộc mỗi người chỉ nhớ, chỉ biết một phần, một đoạn lẻ tẻ, không tập trung, không ổn định qua ký ức của từng người, thông thường chỉ cách ba, bốn đời, từ ông Cố mình trở xuống và ít nhớ tên các Bà…., không nhớ năm sinh năm mất mà chỉ nhớ ngày giỗ (mất) vì mỗi năm có cúng giỗ.

Mỗi dòng họ, gia tộc đều có quá trình tồn tại và phát triển đặc trưng, không ai giống ai. Những điểm riêng biệt ấy một mặt do truyền thống gia phong của dòng họ và mặt khác do hoàn cảnh khách quan, tức cuộc sống nói chung của mảnh đất mà dòng họ chọn làm quê hương, xứ sở. Hai mặt này luôn đan xen vào nhau, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau suốt cả một quá trình dài từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ tổ tiên xa xưa đến con cháu ngày nay.

Gia phả sẽ giúp các gia đình, họ tộc nối kết có hệ thống các sự kiện lịch sử nói trên theo phương pháp khoa học. Trong toàn bộ của một tập Gia phả, phần phả ký có chức năng ghi lại nơi phát tích và quá trình tồn tại, phát triển của một dòng họ, gia tộc qua những bước thăng trầm vui sướng, khốn khổ, tủi nhục, vinh quang của cuộc sống, của toàn bộ gia tộc và của từng thế hệ của gia tộc ấy.

 I. PHÁT TÍCH DÒNG HỌ 

Ông tổ Ngô Văn Vui, không rõ nguyên quán, theo phỏng đoán của con cháu họ Ngô, có thể là người Bình Định, cách đây khoảng 200 năm đã đến mưu sinh lập nghiệp tại vùng đất này mà lúc đó nơi đây còn là một vùng hoang vu, nê địa. Ông kết duyên với bà Phạm Thị Mỵ, không rõ bà từ ngoài vào cùng ông hay người sở tại, không rõ năm sinh, ngày mất của bà.

Lúc bấy giờ bốn anh em nhà họ Ngô vào Nam lập nghiệp. Một người anh (không biết tên) đến Quán Đôi xã Tân Thông Hội, người anh khác ở lại làm ăn ở ấp Trảng Lắm xã Trung Lập Hạ. Người em út là Ngô Văn Đức lên vùng trên khai hoang lập ấp – nay là ấp Ràng, người anh Ngô Văn Vui ở lại đây khai hoang lập ấp, cấy cày sau này người dân đặt tên nơi đây là ấp Ông Vui. Sau khi lập ấp ông rủ thêm một số bè bạn, trong đó có hai người bạn chí cốt Phạm Văn Chơi (ông Cố tổ Phạm Văn Nhánh) và ông Phạm Văn Vẻ đến tiếp tục khai khẩn mở mang xóm ấp: mở lên hướng trên gọi là ấp Sở Bông, mở vào trong gọi là ấp Tầm Lanh, sau năm 1975 chính quyền cách mạng thống nhất lại thành ấp Trung Hiệp Thạnh. Ngày nay, người dân ở đây vẫn còn nhớ câu “Vui Vẻ Chơi Hôi Chợ” là cách ghép tên hai ông bạn kết nghĩa của ông Tiền hiền Ngô Văn Vui là ông Phạm Văn Vẻ và Phạm Văn Chơi cùng với hai người con đầu của ông là ông Ngô Văn Hội và bà Ngô Thị Chợ. Ông Ngô Văn Đức là ông Cố tổ ông Ngô Văn Đáo, có nhà thờ và phả hệ riêng ở ấp Ràng.

Ông Tổ phụ và bà Tổ mẫu sinh ra mười người con (8 nam, 1 nữ):

- Thứ hai : Ngô Văn Hội

- Thứ ba Ngô Thị Chợ

- Thứ tư : Ngô Văn Quyển

- Thứ năm : Ngô Văn Hứa

- Thứ sáu : không rõ

- Thứ bảy : không rõ

- Thứ tám : Ngô Văn Cung

- Thứ chín : Ngô Văn Luôn

- Thứ mười : Ngô Văn Bình

- Thứ mười một : Ngô Văn Định

- Thứ mười hai : Ngô Văn Tự

Con cháu họ Ngô ngày nay không biết năm sinh của các vị Tổ tiên của mình. Nhưng có điều may mắn là mộ bia ông Hai Ngô Văn Hội có nghi rõ năm sinh của ông là 1840. Từ đây, theo phương pháp gia phả học (mỗ đời cách nhau khoảng 25 năm, mỗi người con cách nhau khoảng 2 tuổi) có thể tính được (gần đúng) năm sinh, tuổi thật của ông Tổ Ngô Văn Vui như sau : 1840 -20 (tuổi trưởng thành để có con) = 1820.

Từ đó suy ra năm sinh các người con ông Ngô Văn Vui là :

Bà Ba Ngô Thị Chợ sinh năm : (1840 + 2) = 1842

Ông Tư Ngô Văn Quyển sinh năm : (1840 + 4) = 1844

Ông Năm Ngô Văn Hứa sinh năm : (1840 + 6) = 1846

Người thứ sáu (không rõ) sinh năm : (1840 + 8) = 1848

Người thứ bảy (không rõ) sinh năm : (1840 + 10) = 1850 

Ông Tám Ngô Văn Cung sinh năm : (1840 + 12) = 1852

Ông Chín Ngô Văn Luôn sinh năm : (1840 +14) = 1854

Ông Mười Ngô Văn Bình sinh năm : (1840 + 16) = 1856

Ông Chín Ngô Văn Định sinh năm : (1840 + 18) = 1858

Ông Mười Ngô Văn Tự sinh năm : (1840 + 20) = 1860

Và mộ bia ông Ngô Văn Định có ghi rõ năm sinh 1850. Thêm nữa, đối chiếu với tờ chiếc (t) Bán đứt ruộng đất do ông Trần Văn Thoại, Đại diện xã Trung Lập, tổng Long Tuy Hạ quận Củ Chi tỉnh Bình Dương (Việt Nam Cộng Hòa) lập ngày 27 tháng 10 năm 1959 có ghi tên 11 người đứng tên bán đất (có ký tên hoặc lăn tay), trong đó có ông Ngô Văn Dẹp, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1876, nghề dưỡng lão...Ông Ngô Văn Dẹp là con thứ sáu của ông Tư Ngô Văn Quyển nên nhỏ hơn cha mình là 32 tuổi. Cách tính : 1876 – (20+12) = 1844 là đúng.

Tờ “Bán ruộng đất” này ghi ông Ngô Văn Quyển mất năm 1900. “Khi còn sanh tiền ông có đứng tên trong địa bộ làm chủ 1 sở ruộng và 1 sở đất tọa lạc tại xã Trung Lập quận Củ Chi (Bình Dương) biên ra sau đây : số địa bộ : 1077 – số họa đồ : 118, tờ 8 : 2m – 99 – 20R....”. Vậy việc phỏng đoán trên có cơ sở chính xác. Ta còn biết thêm ông Ngô Văn Quyển mất lúc 56 tuổi (1844 – 1900). Sau này có thể bổ sung vào mộ bia năm sinh của các ông bà. Từ cơ sở địa bạ chính xác này, chúng ta có thể hiểu rằng : ông Tổ Ngô Văn Vui  đến đây lập nghiệp đã lâu và ổn định, tạo lập cơ ngơi điền sản khá nhờ ông giỏi giang cùng với lực lượng hùng hậu có 5 người con trai khỏe mạnh, chí thú làm ăn. Đến khi về già, ông chia phần lớn ruộng đất cho các con rất công bằng, kể cả những người không có con nối dõi (Ngô Văn Hội và Ngô Văn Cung) để sau này con cháu hưởng và thờ cúng hai ông, nối truyền nề Trong số tám người con trai của ông, do ông Ngô Văn Hội và ông Ngô Văn Cung không có con nên chỉ hình thành sáu chi họ Ngô :

- Chi ông Ngô Văn Quyển (chi thứ nhất)

- Chi ông Ngô Văn Hứa (chi thứ hai)

- Chi ông Ngô Văn Luôn (chi thứ ba)

- Chi ông Ngô Văn Bình (chi thứ tư)

- Chi ông Ngô Văn Định (chi thứ năm)

- Chi ông Ngô Văn Tự (chi thứ sáu)

Trong 6 chi (đời thứ II) có chi thứ nhất (ông Ngô Văn Quyển), chi thứ hai (ông Ngô Văn Hứa), chi thứ tư (ông Ngô Văn Bình), chi thứ năm (ông Ngô Văn Định), chi thứ sáu (ông Ngô Văn Khả), chi thứ bảy (ông Ngô Văn Tự) là có con cháu đông đảo, nối tiếp đến nay. Đời thứ III, chi thứ nhất có 3 người nam là các ông Ngô Văn Sử, Ngô Văn Kinh, Ngô Văn Dẹp; chi thứ hai có 1 người nam là ông Ngô Văn Bụi; chi thứ ba có 2 người nam là các ông Ngô Văn Pho, Ngô Văn Trì; chi thứ tư có 3 người nam là các ông Ngô Văn Tình, Ngô Văn Sương, Ngô Văn Lem; chi thứ năm là các ông Ngô Văn Nhành, Ngô Văn Lung; chi thứ sáu là các ông Ngô Văn Yên, Ngô Văn Tỉnh.

Con cháu các chi họ chủ yếu làm nghề ruộng rẫy trên những phần đất ruộng của cha ông nên phần lớn sinh sống tại tổ quán Trung Lập. Một số ít vì hoàn cảnh chiến tranh lộn xộn nên di chuyển lên sinh sống ở Tây Ninh. Một số ít người đi làm ăn xa, nhưng rất gắn bó với quê nhà. Những người thành đạt, khá giả có điều kiện chăm lo mồ mả, nhà thờ tổ tiên và giúp đỡ những bà con trong họ còn khó khăn trong cuộc sống, nhất là tạo công ăn việc làm cho hang trăm người, góp phần đắc lực thực hiện chủ trương của Nhà nước “xóa đói giảm nghèo” ngay trong họ tộc. Việc làm mang ý nghĩa xã hội, nhân văn này đã được bà con làng xóm các họ khác càng kính trọng và quý yêu họ Ngô ta.

 II. LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT 

Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, vùng đất Củ Chi ngày nay thuộc phủ Gia Định, sau được vua Gia Long đổi thành trấn Gia Định (1802), bao gồm cả Nam kỳ. Đến năm 1808 lại đổi thành Gia Định thành (tương tự Bắc thành) thống lãnh 5 trấn : Phiến An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Do vị trí đặc biệt quan trọng, huyện Tân Bình (trấn Phiến An) được thăng lên thành phủ Tân Bình coi 4 huyện : Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc (trước là tổng) với 8 tổng (Bình Trị, Dương Hòa, Tân Phong, Long Hưng, Phước Điền, Lộc Thành, Bình Cách và Thuận Đạo) có 460 xã, thôn, phường, lân, ấp, điếm.

Năm 1889, nhà Nguyễn bãi bỏ cấp khu vực hành chánh quận sự đổi tên địa hạt thành tỉnh. Năm 1910, tỉnh Gia Định được chia ra làm 18 tổng, 200 xã thôn (bỏ tổng Dương Hòa Trung, phần lớn thôn xã nhập vào thành phố, quận 8 ngày nay). Huyện Củ Chi được tách từ quận Hóc Môn gồm 2 tổng Long Tuy Trung và Long Tuy Hạ là 2 trong 18 tổng của tỉnh Gia Định. Tổng Long Tuy Trung cách tỉnh lỵ Gia Định 40km, có 6 xã thôn với 2.434 suất đinh :

1. An Nhơn Tây                       4. Phú Đức

2. Mỹ Hưng                             5. Phú Hòa Đông

3. Nhuận Đức                         6. Phú Thạnh

Tổng Long Tuy Hạ cách tỉnh lỵ Gia Định 27km, có 11 xã thôn với 2.370 suất đinh :

1. Mỹ Khánh                             7. Tân Thông Trung

2. Phước An                             8. Thái Bình Hạ

3.  Phước Mỹ                           9. Thái Bình Thượng 

4., Tân Thông                          10. Trung Lập

5. Tân Thông Đông                 11. Vĩnh An Tây

6. Tân Thông Tây

Đến năm 1956, chánh quyền Ngô Đình Diệm thành lập tỉnh Hậu Nghĩa gồm các quận của 3 tỉnh: Đức Hòa (tỉnh Long An), Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) và Củ Chi (tỉnh Gia Định) sau năm 1975 thì bãi bỏ, trả Củ Chi về tỉnh Gia Định và sau được nhập vào thành phố Hồ Chí Minh. Củ Chi là một trong những huyện ngoại thành như : Thủ Đức, Hóc Môn, Nhà Bè. Bình Chánh, Cần Giờ…

Xã Trung Lập, nơi phát tích họ Ngô vốn có từ lâu, về sau dân đông được tách làm 2 xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ cho đến nay.

Về vị trí, huyện Củ Chi ở phía Bắc Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), án ngữ con đường huyết mạch của thành phố, đường nối từ rừng núi chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh), nơi đặt đại bản doanh của bộ máy lãnh đạo cách mạng miền Nam suốt hai thời kỳ chống Pháp, đánh Mỹ. Cả địch và ta đều đặc biệt quan tâm địa bàn này, quyết tâm giành giựt nhau từng thước đất. Từ đó Củ Chi trở thành điểm nóng, trong đó có xã Trung Lập là một trong những điểm nóng nhất. Thế trận chiến tranh nhân dân đạt đỉnh tuyệt vời. Đầu xã là trại huấn luyện Sở Bông của địch với hàng ngàn quân thường trực, giữa xã vẫn là vùng giải phóng lõm an toàn. Tìm hiểu tinh thần đấu tranh ngoan cường của dòng họ Ngô, của nhân dân xã Trung Lập, có thể hiểu phong trào đánh giặc ở Củ Chi và cả miền Nam.

Từ mấy trăm năm qua, không rõ từ lúc nào, gia tộc họ Ngô đã chọn đất Củ Chi làm quê hương. Kể từ ông Tổ Ngô Văn Vui, đến lập nghiệp tại vùng đất Trung Lập thuộc tỉnh Gia Định, trước đây thuộc quận Hóc Môn và ngày nay thuộc huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

Vùng đất này ngay từ xa xưa, cụ thể ngay từ thời kỳ Gia Long lập quốc (đầu thế kỷ 19), đến đời bị Pháp chiếm đóng biến Nam bộ thành một thuộc địa của chế độ trực trị (khác với chế độ bảo hộ ở miền Trung và miền Bắc kỳ). Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và tiếp theo sau là chế độ phong kiến độc tài Ngô Đình Diệm rồi cuộc kháng chiến chống Mỹ (1955-1975) đã trở thành một vùng đất anh hùng, được xưng tụng là “đất thép thành đồng” lừng danh trong cả nước. Và những thành tích cứu nước, giữ nước suốt gần một thế kỷ đã được ghi nhận bằng những nét chữ vàng son trong lịch sử đấu tranh của dân tộc nói chung và của nhân dân Nam bộ có các dòng họ ở Củ Chi nói riêng, trong đó có phần đóng góp xương máu xứng đáng của dòng họ Ngô nối tiếp nhiều thế hệ.

Tỉnh Gia Định ngay từ thời Gia Long đã được xây dựng thành trung tâm quan trọng của triều đình nhà Nguyễn ở phương Nam, do đó mà Gia Định sớm phát triển về mọi mặt. Đến khi quân Pháp chiếm đóng và đô hộ, tỉnh Gia Định biến thành vùng ngoại vi của thành phố Sài Gòn, nơi chính quyền thực dân thiết lập trung tâm quyền lực tại Nam kỳ. Từ đó nhân dân Gia Định phải chịu đựng biết bao áp lực nặng nề của các kế hoạch bình định, đàn áp thuộc chiến lược bảo vệ sài Gòn. Nhưng mặt khác từ thực tiễn phải đấu tranh giành quyền sống, nhân dân vùng này cũng sớm phát triển về mọi mặt, đi trước những vùng khác.

Thời thế tạo anh hùng. Địa linh Gia Định đã sản sinh nhiều nhân kiệt như những anh hùng Võ Trường Toản, Hồ Huấn Nghiệp, Nguyễn Đình Chiểu… và đáng kể hơn là các phong trào võ trang khởi nghĩa của nông dân lần lượt nổi dậy.

Trước tiên là cuộc khởi nghĩa “18 thôn vườn trầu” (Thập bát phù viên) năm 1886 do thủ lĩnh Phan Công Hớn và Nguyễn Văn Bương tổ chức, chỉ một đêm 30 Tết đã đốt trụi dinh quận Hóc Môn, trừng trị tên Đốc phủ Việt gian Trần Tử Ca. Sau đó vào đầu thế kỷ 20, các phong trào nối tiếp diễn ra như phong trào Phan Xính Long và Thiên Địa Hội (1913), các phong trào Duy Tân, Đông Du (từ 1925-1926) đảng Thanh Hoa - Thanh niên Cao vọng Đảng - của Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Võ Công Toàn). Đến 1940 thì bùng nổ Nam kỳ khởi nghĩa, cuộc nổi dậy qui mô lớn đầu tiên khắp lục tỉnh Nam kỳ mà Hóc Môn, Bà Điểm, Đức Hòa là những mũi xung kích trọng yếu đánh vào đầu não địch tạo tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 thành công và cuộc kháng chiến trường kỳ 30 năm chống Pháp đánh Mỹ toàn thắng vào ngày lịch sử 30-4-1975.

Nếu thời kỳ kháng Pháp (chưa tách riêng Củ Chi) có chi đội 12 (sau đổi thành trung đoàn 312) với những danh tướng Tô Ký, Hồ Thị Bi, Huỳnh Văn Một, thời chống Mỹ có trung đoàn Quyết Thắng chủ lực, có đội nữ du kích Củ Chi lừng danh, xuất hiện một tập thể anh hùng tổ chức đánh địch trên trời, trên mặt đất, dưới hầm sâu - địa đạo Củ Chi 240km dài nhất nước.

 Đầu năm 1966, Mỹ mở cuộc hành quân mang tên Crimp (Bóc vỏ trái đất) được các quan sát viên nước ngoài mô tả là “cả chiến tranh thế giới thứ hai không có một kế hoạch tác chiến nào hoàn hảo hơn như thế”. Điển hình ngày 8-01, Mỹ đã huy động 12.000 quân (gồm 2 lữ đoàn thuộc sư đoàn 1 Mỹ, 1 tiểu đoàn Úc, 8 tiểu đoàn Ngụy), 300 máy bay chiến đấu, 600 pháo cối, 600 xe cơ giới, được máy bay chiến lược B52 yểm trợ và có cả chó béc-giê lùng sục tràn ngập trên mảnh đất nhỏ bé nóng bỏng Củ Chi, nhưng đều bị thất bại phải rút lui. Các xã giải phóng Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Trung Lập vẫn giữ vững và càng củng cố trong lòng địch. Trận càn Cedar Falls rầm rộ của Mỹ chỉ với mục đích “bới tung địa đạo Củ Chi luôn là trở ngại kinh khủng và nguy hiểm”. Cuối cùng Mỹ Ngụy vẫn lãnh lấy thất bại. Những địa danh vốn hiền lành chơn chất như Hố Bò, Gót Chàng, Bến Dược… luôn là nỗi kinh hoàng của giặc Mỹ.

Hội nghị chiến tranh nhân dân ở Củ Chi năm 1966 đã khẳng định nhân dân vùng này đã góp phần giải đáp một câu hỏi lớn cho toàn miền : “Chiến tranh nhân dân có thể thắng chiến tranh hiện đại của Mỹ” bằng nhiều cách : ai ai cũng đánh được Mỹ, vũ khí nào cũng đánh được, ở đâu cũng đánh được, ngày và đêm đều đánh được… và sau đó đại hội phát động phong trào thi đua diệt Mỹ trong toàn huyện, lập vành đai diệt Mỹ, bao vây căn cứ Đồng Dù, hình thành thế trận chiến đấu kiểu vành đai.

Một thế mạnh đặc trưng của Củ Chi mà không nơi nào có được là địa đạo. Từ sau cuộc hành quân Crimp, Mỹ đã kết luận rằng “hệ thống đường hầm Củ Chi là một trở ngại kinh khủng và nguy hiểm”nên đã tổ chức nghiên cứu, viết tài liệu huấn luyện, tổ chức những đội phá đường hầm.

Trong cuộc hành quân Cedar Falls được kể là một trận càn ác liệt, nguy hiểm, ngoài 200 xe ủi nhằm bới tung “địa đạo Củ Chi” địch dùng cả súng phun lửa, bom napan để đốt cháy dưỡng khí trong địa đạo, lại bơm nước, đánh thuốc nổ, bơm hơi độc và tiếp theo là “đội quân chó” sục sạo miệng hầm, các đội chuột cống luồn lách tích cực. Để kích động dư luận, các cơ quan tuyên truyền tâm lý chiến Mỹ rêu rao đã phá hủy 6 hệ thống hầm ngầm, tổng cộng dài 9.445m, một con số vẫn còn quá nhỏ so với trên 200km địa đạo và 500km chiến hào giao thông đã được xây dựng kiên cố và đầy hiệu quả đối với du kích.

Thế là quân dân Củ Chi vẫn tiếp tục đứng vững trên mảnh đất quê hương “đất thép thành đồng” của mình trong suốt thời gian 20 năm chống Mỹ Ngụy, luôn nắm vững lá cờ đầu. Danh dự này Củ Chi đã đổi bằng máu. Củ Chi đã cống hiến cho đất nước 10.051 liệt sĩ - số liệt sĩ cao nhất của một huyện trong cả nước. Trong số đó dòng họ Ngô có gần 20 liệt sĩ, riêng chi 5 ông Ngô Văn Sử có trường hợp hai vợ chồng đều là liệt sĩ như ông bà Ngô Văn Then - Bùi Thị Rư và các con. Gia đình ông Ngô Văn Nhóc có 2 bà mẹ Việt Nam anh hùng là bà Nguyễn Thị Đây và người con dâu là Bùi Thị Rư, có người cháu nội rễ là Cao Văn Soái (Sáu nhỏ) liệt sĩ được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Và năm 1975 Củ Chi đã có số xã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhiều nhất so với các nơi khác : 6 đơn vị - đó là các xã Trung An, Nhuận Đức, Bình Mỹ, Phú Mỹ Hưng, Phước Hiệp, Trung Lập Thượng. Trước đó, năm 1970, trong số 18 tập thể và 20 cán bộ chiến sĩ thuộc Sài Gòn - Gia Định được công nhận anh hùng, Củ Chi đã có 6 đơn vị (có Dân quân du kích xã Trung Lập) và 4 cá nhân.

Từ xa xưa xã Trung Lập là một, sau này mới tách làm hai : Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ. Vùng quê hương họ Ngô tọa lạc, nay thuộc xã Trung Lập Thượng, thuộc vùng Bắc huyện Củ Chi, Đông giáp trung Lập Hạ, Tây giáp Lộc Hưng (thuộc Trảng Bàng, Tây Ninh), Nam giáp Phước Thạnh, Bắc giáp An Nhơn Tây.

 Như tất cả các vùng nông thôn khác thuộc Gia Định và Nam bộ ngày xưa, Trung Lập là một xã nghèo, gần 100% dân sống bằng nghề ruộng rẫy với mức thu nhập hằng năm rất thấp. Nhưng cũng như các vùng khác trong đất nước, nơi này có truyền thống yêu nước nổi tiếng thừa kế và phát huy từ truyền thống của Hóc Môn và Củ Chi sau này khi tách ra khỏi Hóc Môn - Bà Điểm, 18 thôn vườn trầu bất khuất.

Dưới chế độ thuộc địa Pháp, tất cả các phong trào yêu nước chống thực dân đều có sự tham gia của người dân Trung Lập. Đáng kể nhất trong cuộc Nam kỳ khởi nghĩa 1940, Trung Lập đóng vai trò yểm trợ tích cực về lương thực, của cải vật chất, tiền bạc cho lực lượng nổi dậy ở các xã lân cận. Do đó mà khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp khốc liệt, Trung Lập cũng bị thiệt hại khá nặng nề. Đến Cách mạng tháng 8-1945 rồi cuộc kháng chiến chống Pháp, Trung Lập luôn luôn được coi là “xã điểm” cùng với quân dân Hóc Môn, Bà Điểm, quyết chịu đựng mọi gian khổ để bảo vệ đất nước. Trong cuộc đánh Mỹ cứu nước, phong trào phát triển đến cực điểm cuộc chiến đấu. Phong trào ở chung quanh càng phát triển đến đâu thì Trung Lập vẫn luôn phất cao ngọn cờ đầu.

Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, sau hiệp định Genève 1954 quyết tâm bình định các vùng ngoại vi thủ đô Sài Gòn, đặc biệt là phía Bắc, các con đường chiến lược Sài Gòn - Tây Ninh - Phnom-pênh nên ra sức càn quét vùng Củ Chi, chọn Trung Lập là điểm chính, thành lập 4 ấp chiến lược và tập trung về đây (Gò Nổi) dân 6 xã vùng Bắc Củ Chi. Để thực hiện theo ý đồ này chúng đã khủng bố ác liệt, đặc biệt là giết người mổ bụng lấy gan mật để ăn, đốt phá nhà cửa, ruộng rẫy, vườn tược, những vùng “trắng” bị kể là căn cứ cách mạng, không còn cành cây ngọn cỏ.

Kể từ đầu năm 1960, phong trào đấu tranh bắt đầu nổi lên và phát triển ngày càng mạnh mẽ, trong đó đáng kể là sự đóng góp tích cực của các má, các chị. Cơ sở Đảng được thành lập, liên tục chỉ đạo sát các cuộc đấu tranh từ hợp pháp đến bán hợp pháp và bất hợp pháp như chống thuế chợ, chống gom dân vào ấp chiến lược, đòi quân lính không được bắn phá làng mạc… Đồng thời ở các ấp, các chị thi đua đào hầm bí mật, nuôi giấu cán bộ chiến sĩ, nuôi dưỡng thương binh. Trong tất cả các cuộc đấu tranh trực diện với địch, lúc nào cũng có người họ Ngô tham gia tích cực.

Năm 1962 chính quyền cách mạng xã thành lập, đội võ trang nhanh chóng lớn mạnh từ 10 đến 24 tay súng, luôn tổ chức đánh địch, bảo vệ địa bàn và bổ sung quân số cho lực lượng huyện. Từ đây cuộc đọ sức giữa quân địch gồm Bảo an, địa phương quân và nông dân vũ trang diễn ra quyết liệt ngay trên những cánh đồng khô cỏ cháy của Trung Lập Thượng. Du kích đánh Bảo an, tập kích quân biệt kích và đủ mưu trí trang bị để chặn đánh một tiểu đoàn Mỹ suốt 3 ngày 2 đêm tại Bàu Gáo, ấp Ràng. Những người con cháu họ Ngô như Ngô Văn Ken, Ngô Văn Ten, Bảy Rẫy, Năm Nhánh là những cán bộ cốt cán, kiên cường bám trụ ở đây.

Năm 1967, phong trào chống càn quét ngăn chặn xe tăng Mỹ càn vào xóm diễn ra quyết liệt. Từ Lào Táo lên Ràng hễ có xe tăng địch là bà con tràn ra đường cản lại. Phong trào gom bom, pháo lép để làm mìn đánh tăng ngày càng lên cao. Trai gái các ấp Trung Hưng, Lộc Hưng giành nhau bom lép. Chiếc xe tăng đầu tiên bị diệt ở ngã ba Cây Cám thuộc ấp Đồng Lớn. Ở Xóm Rừng, các nữ du kích giả làm người gánh phân để mang mìn ra ruộng chận đánh tăng, diệt được 6 chiếc. Trung Lập Thượng từ một xã trắng trở thành một xã mạnh toàn diện, được đề cử báo cáo điển hình trong toàn huyện và sau đó được công nhận xã anh hùng.

Tính đến năm 1962, Đảng bộ xã đã có 220 đảng viên, 24 du kích. Huyện rút lên trên và chỉ một tháng sau đã bổ sung đủ quân số. Đó là nhờ nhân dân cách mạng, ý chí kiên cường của đảng viên và được Đảng bộ ở đây liên tục tích cực trong xây dựng lực lượng chiến đấu.

Tính đến 1968, xã đã có 78 dũng sĩ diệt Mỹ, trong đó có 2 nữ. Trận tiêu biểu là trận đánh phá hủy cầu Công sở xây dựng trên lộ 7 gần căn cứ Trung Hòa. Cầu không lớn nhưng là cầu huyết mạch nằm trên lộ quan trọng nên địch bảo vệ kỹ, dưới cầu có gài chông, lựu đạn. Cách cầu 50m có một trung đội Bảo an canh giữ, đi tuần suốt đêm. Nhưng với quyết tâm, mưu trí và sự chỉ đạo trực tiếp của Bí thư xã cuối cùng cầu bị đánh sập.

Với quá trình hy sinh chiến đấu kể trên, hiện Trung Lập Thượng vẫn còn cưu mang, nuôi dưỡng 199 thương binh 703 gia đình liệt sĩ và 55 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trong đó có gia đình có 16 liệt sĩ (gia đình chị Út Phước, nguyên nữ Bí thư chi bộ Trung Lập Thượng từ 1972 trở về trước) hằng năm giỗ chung nhân ngày Thương binh liệt sĩ (27-7).

 III. ĐẶC ĐIỂM DÒNG HỌ 

  1. Tinh thần yêu nước tuyệt vời : hiện thời họ Ngô được kể là một tộc họ khá nổi tiếng ở Trung Lập Thượng (Củ Chi). Họ Ngô tính đến nay đã được 7 đời. Họ tộc này lớn không phải vì giàu sang, của cải vật chất lớn, người đông mà chính vì công lao đóng góp cho đất nước, quê hương. Tính chung cho đến nay trong dòng họ đã có đến 20 liệt sĩ, 2 bà mẹ Việt Nam anh hùng (bà Nguyễn Thị Đây và bà Bùi Thị Rư), 2 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (Ngô Văn Rạnh, Cao Văn Soái) và một anh hùng lao động (Ngô Văn Rành) và rất nhiều người còn sống sót sau hai cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ tại quê hương và các địa phương khác ở Gia Định, miền Đông Nam Bộ là những chiến sĩ cách mạng. Đặc biệt trong 5 năm (1965 – 1969), bà Nguyễn Thị Đây đã hy sinh 3 người con trai và một người con dâu cho cách mạng. Đau đớn nhất là năm 1969, chỉ trong 7 ngày từ 13/9 đến 20/9, hai người con trai của bà liên tiếp hy sinh.

2. Tinh thần gia tộc mạnh mẽ : nhờ ông Tổ Ngô Văn Vui (đời I) khéo tổ chức, chỉ huy bảy người con trai thành lực lượng hung hậu cố công khai phá từ khu rừng hoang thành trăm mẫu đất thuộc chia cho các con tạo dựng cơ nghiệp, phát triển ổn định cho con cháu mãi tới ngày nay. Trên mỗi tấc đất nghĩa tình đó đều đã thắm đẩm mồ hôi và cả máu của Tổ tiên. Tài sản quý giá này con cháu luôn ra sức giữ gìn và sử dụng có hiệu quả nhất, vì mỗi lần bước chân trên mảnh đất tình nghĩa này ai cũng tưởng nhớ đến công đức Tổ tiên. Tình yêu nước cộng với tình yêu ông bà gia tộc thành sức mạnh phi thường đã thôi thúc bao người hậu duệ họ Ngô sẳn sang hy sinh than mình bảo vệ quê hương tổ quán ngay trên vùng Đất Thép Củ Chi.

3. Tình thân ái và lòng nhân hậu, nghĩa tình được thể hiện khá rõ trong họ tộc Ngô. Ông Hai Ngô Văn Hội và ông Tám Ngô Văn Cung vì không có con nối dòng, đã sẳn lòng để các phần ruộng của mình được hưởng, chia lại cho con cháu trong họ còn khó khăn (ý để giữ còn mãi trong dòng họ). Đền đáp lại ơn nghĩa cao cả này, các người cháu cũng đã thay nhau cúng giỗ hai ông đều đặn hàng năm từ khi hai ông mất đến nay. Nghĩa cử cao đẹp này của hai ông cũng ngầm nhắc nhở con cháu về tình thương yêu thân ái, chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết giúp đỡ bảo bọc nhau trong tình huyết thống.

4. Phát huy truyền thống tốt đẹp của họ tộc, sau Cách mạng tháng Tám 1945, dù trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang thời ác liệt, hậu duệ đời V họ Ngô – ông Ngô Văn Ken đã dứt núm ruột, mạnh dạn đưa con trai đầu lòng của mình ra miền Bắc học vì sự nghiệp xây dựng dòng họ và vì tương lai đất nước lâu dài. Kết quả, anh Ngô Trung Kiên đã làm đúng như sự kỳ vọng của cha và dòng họ. Anh Ngô Trung Kiên còn đứng ra huy động bà con cô bác, anh em trong họ tôn tạo lại mồ mả ông bà, xây dựng nhà từ đường khang trang để có nơi thờ cúng Tổ tiên, ông bà hàng năm. Các cụ lớn tuổi trong họ còn có ý định năm tới sẽ thỉnh ông Hai Ngô Văn Hội và ông Tám Ngô Văn Cung (không có con, các cháu đang thờ cúng) về cúng ở nhà từ đường luôn cho thêm phần đầm ấm và thể hiện sự đoàn kết thống nhầt một long trong họ. Đặc biệt, nhà từ đường này có sự phối hợp xây dựng của lãnh đạo Đảng, chính quyền Ban ấp nên đã trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa lễ hội của nhân dân trong ấp; phối hợp thờ các vị tiền hiền của 27 họ tộc có công khai khẩn mảnh đất này, các liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Theo lời kể của nhiều vị cao niên có quan hệ gần gũi với dòng họ, những người thuộc họ Ngô ở đất Trung Lập Thạnh thuộc xứ Trung Lập thôn, từ xưa đến nay vốn có tính hiếu thuận và chính trực thường lánh xa lợi danh lấy sự thuận hòa, đùm bọc để đối đãi với mọi người trong và ngoài họ làm niềm vui để sống. Ai đến ấp Ông Vui (nay là Trung Hiệp Thạnh) xã Trung Lập Thượng huyện Củ Chi, hỏi hàng trăm nóc gia đều là con cháu họ Ngô, cùng ông Tổ sinh ra, bám trụ sống tại Tổ quán. Ít có họ tộc nào, sau cuộc chiến ác liệt mấy mươi năm và vừa đánh giặc vừa tổ chức cuộc sống ổn định, gần như giữ nguyên vẹn mảnh đất của Tổ tiên ông bà để lại. Thượng tướng Phan Trung Kiên, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng – người con của xã Tân Phú Trung (Củ Chi), người đã thấu hiểu tâm tư nguyện vọng tình cảm của bà con mình, có lần về thăm Đất Thép Củ Chi rất tự hào và xúc động nóiđại ý : “Miếng ruộng mảnh vườn, mồ mả ông cha là di sản thiêng liêng của Tổ tiên để lại, ai cũng quyết bảo vệ cho bằng được. Người dân Củ Chi là như vậy đó! ”.

Chạy xe chầm chậm trên lộ nhựa nhìn hai dãy nhà hai bên đường rất nhiều nhà tường mái ngói, trước nhà cũng có sân rộng, vườn cây ăn quả quanh nhà, hàng rào trúc, hoa kiểng xanh tươi, thỉnh thoảng nổi lên mấy villa vườn có tàng cây xanh che khuất một góc mái ngói đỏ. Sau nhà nối tiếp với mấy dây ruộng lúa như tấm thảm xanh mát mắt, lòng chúng tôi thấy vui sướng trước cảnh làm ăn khấm khá của bà con họ Ngô ở Trung Hiệp Thạnh, đã đổi đời, góp phần làm đẹp giàu quê hương Đất Thép anh hùng.    

 III. XÂY DỰNG DÒNG HỌ VĂN HÓA 

Họ Ngô Trung Hiệp Thạnh tuy chưa thành lập Ban Liên lạc dòng họ, song qua việc tham gia dựng bộ Gia phả họ Ngô, các chuyên viên gia phả chúng tôi, những người con cháu họ Ngô đã làm được một số việc khá tốt, như : tôn tạo mồ mả ông bà, xây nhà từ đường, dựng bộ gia phả ; cả việc khuyến học, khuyến nghiệp, khuyến tài cho thế hệ trẻ trong dòng họ cũng đã làm được một số, nhưng còn đơn lẻ, chưa thành sức mạnh của dòng họ như các họ Tô, Lê, Nguyễn, Phan, Vũ (Võ),…đã làm. Sắp tới nếu họ Ngô có Ban Liên lạc, mọi việc lo cho gia tộc nói trên sẽ đạt hiệu quả cao hơn, vì sẽ có điều kiện nối kết chặt trong dòng họ, nâng cao trách nhiệm những người cùng huyết thống, dể tạo sự đồng thuận, sát cánh bên nhau chung lo cho tương lai con cháu chúng ta, như ông cha ta đã lo tạo dựng cơ nghiệp và truyền thống đẹp cho chúng ta vậy : nước mắt chảy xuống mà. Yêu kính thờ phụng  Tổ tiên ông bà và chăm lo con cháu mọi mặt là hai nghĩa vụ cao cả và nặng nề song song tồn tại luôn đặt sẳn trên đôi vai của người đương thời trong mỗi họ tộc. Mục đích việc dựng gia phả cũng vậy, việc ghi lại có hệ thống tên tuổi, công lao, sự nghiệp cùng truyền thống tốt đẹp của Tổ tiên ông bà ngày xưa để con cháu hiện nay và sau này biết mà tự hào, thương yêu ; có biết mới thương, có thương mới hết lòng bảo vệ, không làm điều gì sái quấy trái đạo để giữ gìn thanh danh dòng họ. Đó là cách chúng ta giáo dục thành công nhất con cháu mình qua Gia phả vậy. Từ đó, tất cả con cháu ta sẽ đều là con ngoan, trò giỏi, công dân tốt, ra đời thành đạt, là đã báo hiếu với Tổ tiên ông bà rồi. Được như vậy thật xứng đáng là dòng họ văn hóa :

Hữu Dư Phước Ấm Lưu Miêu Duệ

Bất Tử Tinh Thần Tại Tử Tôn

(Tổ tiên ông bà để lại phước đức cho con cháu

Giữ mãi truyền thống muôn đời là do ở con cháu vậy.)