Trang chủ > 060. Gia phả họ Liêu (xã Tân Thông Hội & xã Tân An Hội, Củ Chi, TP.HCM)

060. Gia phả họ Liêu (xã Tân Thông Hội & xã Tân An Hội, Củ Chi, TP.HCM)

20/08/2022 22:31:06

Gia phả họ Liêu ở xã Tân Thông Hội & xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, TP.HCM được Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP.HCM hoàn thành năm 2011. 

LỜI TỰA

Tôi đã được sinh ra, lớn lên và trưởng thành trên vùng đất tổ: ấp ấp Mũi Lớn, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi. Tôi đã vừa lao động để kiếm sống vừa góp phần chiến đấu bảo vệ quê hương.

Hòa bình lập lại tôi vẫn sống và làm việc trên mảnh đất này nay đã tròn tám mươi năm. Tôi đã chứng kiến bao sự thăng trầm của quê hương, của dòng họ.

Cũng do chiến tranh xảy ra liên miên trên quê hương mình nên bà con ta phải lao đao: có người tham gia kháng chiến, có người phải bám đất, bám làng lao động dưới bom đạn kẻ thù, có người phải bôn ba xứ người để lo việc mưu sinh nên bà con trong họ ngày một xa dần, các bậc lão thành lần lượt qua đời. Do vậy, mà các thế hệ nối tiếp không hiểu hoặc hiểu một cách mơ hồ về cội nguồn dòng họ, về bà con xa gần.

Biết đến công ơn và phải tri ân tổ tiên là đạo lý của người Việt Nam. Cho nên ông bà ta nhắc nhở:

Chim có tổ, người có tông.

Làm người phải biết tổ tiên, ông bà. 

Nghĩ đến lời dạy của ông bà, tôi cùng một số bà con tìm hiểu những người trong họ, ghi họ tên, ngày giỗ (nếu qua đời) và hệ thống lại thành “Sổ phú y gia phả kiến họ Liêu nội, ngoại” nhằm để con cháu biết ông bà tổ và con cháu từng thế hệ - nhưng chưa hệ thống đầy đủ và cách làm chưa khoa học.

Vinh dự thay, họ Liêu ta được Ủy Ban Nhân dân xã Tân Thông Hội chọn là một trong mười họ tộc cố cựu mà Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Thành phố Hồ Chí Minh đã tình nguyện dựng phả tặng cho xã nhằm góp phần xây dựng xã nông thôn mới theo Quyết định số 5464/QĐ-UBND ký ngày 2 tháng 10 năm 2009.

Theo sự thống nhất của bà con trong tộc họ Liêu ở ấp Mũi Lớn thì quyển gia phả này được lập gồm:

Chi I: từ trực hệ ông Liêu Văn Sanh đến hậu duệ hiện nay.

Chi II: từ trực hệ ông Liêu Văn Rốt (đời III) đến hậu duệ hiện nay (đời VII).

Nội dung bộ gia phả gồm:

• Phả ký: ghi lại quá trình ông bà tổ dựng nghiệp, sinh sống và phát triển dòng họ cùng những ưu khuyết điểm của dòng họ.

• Phả hệ: ghi tên tuổi, năm sinh, năm mất cùng hành trạng của từng thành viên qua các thế hệ.

• Ngoại phả: ghi lại việc lập nhà thờ họ, việc thờ cúng tổ tiên, vị trí mồ mả, danh sách ngày giỗ của những người đã qua đời.

Qui mô dòng họ ta rất lớn, quyển gia phả này không thể hiện hết dòng họ Liêu ta. Do vậy, chúng tôi rất mong những chi họ còn lại nên lập gia phả cho các chi họ mình để họ tộc ta có được bộ gia phả hoàn chỉnh.

Tôi cám ơn bà con đã cộng tác với Trung tâm cung cấp thông tin chính xác và xin trân trọng sự nhiệt tình của Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy Ban Nhân dân xã Tân Thông Hội đã tạo điều kiện để cuốn gia phả họ Liêu được hoàn thành.

Bộ gia phả này có thể phổ biến rộng rải cho các nhà khoa học nghiên cứu. 

Củ Chi, ngày … tháng 11 năm 2011

CHI THỨ II, ĐỜI IV

Liêu Văn Túa 

 

PHẢ KÝ

Dòng họ nào cũng có lịch sử. Lịch sử của dòng họ không những có ích cho dòng họ mà còn góp phần làm nên lịch sử dân tộc. Công việc ghi chép về sự phát triển và truyền thống văn hóa của dòng họ tức là chép lịch sử của dòng họ được gọi là dựng gia phả. Đây là việc làm vừa mang tính văn hóa khoa học, vừa thiêng liêng vì là trách nhiệm của con cháu nhằm khẳng định cội nguồn của dòng họ, xác định ông bà tổ tiên và tổ quán của dòng họ. Ghi lại lịch sử của dòng họ cũng không quên tìm hiểu quan hệ hôn nhân của dòng họ mình với dòng họ khác làm cho dòng họ phát triển và ghi lại việc làm ăn sinh sống và sự gắn bó của các thế hệ con cháu qua từng giai đoạn lịch sử. Qua đó thấy được những ưu điểm của dòng họ cần phát huy và khắc phục mặt còn hạn chế.

Họ Liêu là họ rất hiếm trong các dòng họ Việt Nam nhưng sự hiện diện của họ Liêu trên vùng đất Tân An Hội và Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh là một thực tế.

Tìm hiểu lịch sử của họ Liêu trước hết là tìm hiểu vùng đất mà tổ tiên họ Liêu đã chọn, đã ra sức khai hoang để định cư làm nơi chôn nhau cắt rốn của bao thế hệ con cháu.

I. LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT TÂN AN HỘI – TÂN THÔNG HỘI – TỔ QUÁN CỦA HỌ LIÊU

Đầu thế kỷ XIX, hai anh em họ Liêu từ Trung Quốc sang Việt Nam lập nghiệp. Không rõ hai ông đã đến những vùng đất nào nhưng cuối cùng theo ông Liêu Văn Túa (hậu duệ đời V, chi II) cho biết hai ông tổ đã dừng chân tại làng Tân An Hội, tổng Long Tuy Hạ, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định nay là xã Tân An Hội và xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. 

Tìm hiểu quá trình hình thành hai xã này là tìm hiểu quá trình hình thành xã Tân An Hội xưa. Trong quá trình mở cõi phương Nam, dấu chân người Việt đã đặt chân trên Đồng Nai (Nam Bộ) từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII đã tương đối đông người. Dần dần lượng người vào Nam ngày càng đông đảo nhất là từ khi chúa Nguyễn đã tạo ra ảnh hưởng của mình trên vùng đất này. Đối tượng ra đi là những nông dân nghèo khổ của vùng Ngũ Quảng  do không chịu được cuộc chiến tranh của tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn kéo dài gần 200 năm. Họ còn là những tù nhân bị lưu đày, những binh lính đào ngủ kể cả những người nghe lời rủ rê của bạn bè vì:

Đồng Nai gạo trắng như cò

Bỏ cha, bỏ mẹ xuống đò theo anh!

Ngoài những đối tượng trên còn có người Hoa thuộc thành phần trung thành với nhà Minh, chống đối nhà Thanh ở Trung Quốc sang xin trú ngụ tại Việt Nam được chúa Nguyễn cho phép, một số làm ăn sinh sống ở vùng đất Nam Bộ vào thế kỷ XVII.

Khi Đồng Nai tương đối đông người, năm 1689 triều đình cử Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam xây dựng tổ chức chính quyền, thiết lập bộ máy hành chánh, lấy vùng Đồng Nai làm dinh Trấn Biên, đặt huyện Phước Long, lấy đất Sài Gòn lập dinh Phiên Trấn, đặt huyện Tân Bình rồi lập ra thôn, xã, ấp.

Đến năm 1805, 74 thôn xã của tổng Dương Hòa Trung, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình đã xuất hiện các thôn Tân Thông, Tân Thông Tây, giáp Vĩnh An Tây và Tân Thông Trung.

Năm 1836 vua Minh Mạng cho lập địa bạ 6 tỉnh Nam Bộ thì ở tổng Dương Hòa Trung có 21 xã, địa giới duyên cách rõ ràng, trong đó có các thôn:

• Thôn Tân Thông: 

- Phía Đông giáp Tân Phú Trung

- Phía Tây giáp Tân Thông Tây

- Phía Nam giáp thôn Mỹ Hạnh, huyện Tân Long

- Phía Bắc giáp An Thuận Tây

• Thôn Tân Thông Tây:

- Phía Đông giáp Tân Thông

- Phía Tây giáp Tân Thông Trung

- Phía Nam giáp thôn Hòa Mục

- Phía Bắc giáp Tân Thông và Tân Thông Trung  

• Thôn Tân Thông Trung ở xứ Trúc Trì (Bàu Tre)

- Phía Đông giáp Tân Thông Tây

- Phía Tây giáp Phước Mỹ

- Phía Nam giáp địa phận Tân Thông Tây

- Phía Bắc giáp thôn Trung Lập và Vĩnh An Tây

• Vĩnh An Tây sau này là ấp Cây Sộp

- Phía Đông giáp địa phận hai thôn Vĩnh An và Tân Thuận Tây

- Phía Tây giáp địa phận thôn Trung Lập

- Phía Nam giáp địa phận thôn Tân Thông Trung

- Phía Bắc giáp rừng rậm

Theo địa giới hành chánh ngày nay thì thôn Tân Thông là vùng hậu duệ của người anh ông Liêu Văn Thuột chi I, còn hậu duệ ông Liêu Văn Thuột (em) thì sinh sống ở ấp Mũi Lớn (thuộc Tân Thông Tây).

Về sau có thêm Tân Thông Đông.

Thời Pháp thuộc, năm 1931, làng Tân Thông, Tân Thông Tây, Tân Thông Trung và Vĩnh An Tây trong đó có khu thị tứ Củ Chi nhập lại thành làng Tân An Hội thuộc tổng Long Tuy Hạ, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định.

Năm 1957, chính quyền Sài Gòn ấn định lại các đơn vị hành chánh của tỉnh Gia Định lập ra quận Củ Chi thuộc tỉnh Bình Dương thì làng Tân An Hội thuộc quận Củ Chi, tỉnh Bình Dương.

Sau 30/4/1975, đất nước được thống nhất, huyện Củ Chi thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, xã Tân An Hội được chia ra làm ba đơn vị hành chánh:

• Thị trấn Củ Chi là trung tâm huyện Củ Chi

• Xã Tân An Hội từ xóm Huế lên ấp Mũi Lớn, ấp Bàu Tre, ấp Cây Sộp và xóm Việt kiều Campuchia

Con cháu họ Liêu thuộc trực hệ ông Liêu Văn Thuột hiện vẫn còn ở ấp Mũi Lớn 1.

 • Xã Tân Thông Hội gồm 10 ấp: ấp Tiền, ấp Hậu, ấp Chánh, ấp Bàu Sim, ấp Tân Định, Tân Tiến, Tân Lập, Tân Thành, ấp Thượng, ấp Trung. Con cháu họ Liêu trực hệ của người anh ông Liêu Văn Thuột vẫn sống tại ấp Chánh, trên đất thừa kế của ông tổ mình.

Các thôn Tân Thông xưa là vùng đất triền, hướng Tây Bắc, nghiêng dần về đồng bưng Mỹ Hạnh (Đức Hòa) và Mũi Lớn (Tân An Hội) vốn là đất phèn chua nước mặn (sau này gọi là đồng bưng Tam Tân).

Phía Đông giáp cánh đồng Tân Phú Trung chuyên trồng lúa chen với những vạt đất triền trồng rau, đậu phộng, tre trúc và cây thuốc lá.

Đầu những năm 1900 dân cư vùng Tân Thông còn thưa thớt, dân khẩn đất chủ yếu hai bên đường Thiên Lý (nay là quốc lộ 22) cắt ngang các thôn Tân Thông, Tân Thông Trung, Tân Thông Tây nối mạch giao thông từ Bến Nghé với Trảng Bàng, Tây Ninh đem lại sự trù phú cho chợ Củ Chi và các xóm ấp xung quanh đồng thời cũng là tuyến đường quân sự mà giặc Pháp đã hành quân nhanh chóng lên Tân Phú Trung, Tân Thông bắn giết người vô tội. Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940 xã Tân An Hội và Tân Thông Hội ngày xưa nay là Tân An Hội do bàn tay lao động của nông dân và nhân dân lao động nghèo khổ từ Đàng Ngoài vào, từ Trung Quốc sang. Họ đã lao động cật lực đấu tranh với thiên nhiên, với thú dữ để có điểm định cư.

Họ đã lao động biến những vùng đất hoang vu thành những vùng đất màu mở, những đồng ruộng phì nhiêu, những luống rau xanh tươi tạo thành cảnh quang xinh đẹp. Họ đã xây dựng tình làng nghĩa xóm, gian khổ có nhau.

Tân An Hội trong quá trình phát triển, từ thôn tới làng rồi xã, có lúc nhập vào, có lúc tách ra… người dân sống trên quê hương mới cũng không được yên ổn. Rồi chiến tranh cũng đã xảy ra trên vùng đất này: cuộc nội chiến đã xảy ra giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, khốc liệt nhất là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Vốn mang trong người dòng máu bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhân dân Củ Chi trong đó có hai xã Tân An Hội và Tân Thông quyết chiến đấu để bảo vệ quê hương mà họ đã dày công xây dựng.

Mở đầu là cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp.

Năm 1858 Pháp và Tây Ban Nha bắn vào cửa bể Đà Nẳng mở đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam. Năm 1859, Pháp đã kéo vào Gia Định, có mặt ở Hóc Môn. Nhân dân Tân An Hội, Tân Thông Hội đã ủng hộ các phòng trào yêu nước như:

- Khởi nghĩa của Trương Định – Trương Quyền

- Đặng Văn Duy, đánh đồn Tây Thới (nay là ấp Đồn).

- Ông Võ Văn Nhâm xã Phước Vĩnh An lập đội nghĩa tử đánh Tây.

- Khởi nghĩa Nguyễn Ảnh Thủ, Phan Công Hớn, Phan Xích Long rồi hội kín Nguyễn An Ninh.

Dù các phong trào còn hạn chế về đường lối và phương pháp đấu tranh chưa thích hợp với mục tiêu đề ra nhưng thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân trong xã.

Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân hai xã đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giặc càng khủng bố tàn sát nhân dân Tân An Hội và Tân Thông Hội cùng nhân dân Củ Chi càng dũng cảm, sáng tạo trong đấu tranh.

Ngay từ khi Đảng mới được thành lập, nhân dân Tân An Hội cùng nhân dân Củ Chi tham gia biểu tình đòi giảm thuế thân, giảm giờ làm việc với số lượng khoản 5.000 người vào ngày 4/6/1930 rồi 1/8/1930 nhân ngày quốc tế chống chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân nổi trống mỏ, tù và, đốt pháo tre biểu dương lực lượng nâng cao uy thế của ta làm cho làng, lính phải co giò chạy trốn. Phong trào 1930 -1931 thất bại, phong trào tạm lắng đến 1936 -1939 phong trào lại lên làm nên phong trào Đông Dương đại hội tô dậm thêm cho khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 – mà Tân Thông, Bến Đò bị tổn thất nặng nề nhưng thắng lợi cũng đến sau đó 5 năm. 

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công trong cả nước. Nhưng Pháp với sự hỗ trợ của đồng minh tái chiếm nước ta, để rồi ta phải : 

“Chín năm làm một Điện Biên” để

“Nên vành hoa đỏ, nên trang sử vàng”

Hiệp định Genève được ký kết, hòa bình được lập lại. Có điều lý thú là lực lượng Đệ Thập Tam bán Lữ đoàn lê dương (13e DBLE) một thời đã làm mưa làm gió ở vùng Hóc Môn, Trảng Bàng, Tây Ninh là lực lượng đầu hàng quân ta ngày đầu tiên chiến dịch Điện Biên Phủ.

Dân chúng vui mừng ùn ùn đưa nhà về đất cũ, và cuộc biểu tình mừng ngày hòa bình đã bị thảm sát tại Quán Đôi ngày 20 tháng 7 năm 1954, bao nhiêu dân chúng tay không đã ngả xuống. Ngày nay còn bia căm thù ở Quán Đôi.

Nhưng Hiệp Định đã ký chưa ráo mực thì Mỹ can thiệp vào Việt Nam định biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Chúng thực hiện nhiều chiến lược từ chiến tranh “đặc biệt”, “cục bộ” rồi “Việt Nam hóa chiến tranh” với nhiều cuộc hành quân ác liệt: Jontion city, Cedarfall, Crimp với “tìm diệt” và “bình định”. Người dân biết bao gian khổ, bị dời nhà, bị tố cộng, bị chất độc da cam, bị bom cày, đạn xới, bị vũ khí tối tân của địch giết hại bao nhiêu người yêu nước. Nhưng rồi chính nghĩa bao giờ cũng thắng hung tàn.

Qua hai cuộc kháng chiến, đã thể hiện lòng người dân Tân An Hội, Tân Thông Hội trong đó có đông đảo bà con họ Liêu đối với quê hương đất nước đã góp phần làm nên địa danh Củ Chi “Đất thép thành đồng” khu “địa đạo” vang danh thế giới. 

Đã qua rồi thời khó khăn của hai xã trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh, thời kỳ bao cấp. Hiện nay xã Tân An Hội và Tân Thông Hội từng bước xây dựng xã mình giàu đẹp.

Ấp Mũi Lớn 1, xã Tân An Hội là nơi hậu duệ của ông Liêu Văn Thuột sinh sống trên đất đã thừa kế của ông.

Ấp có vị trí sau:

- Phía Đông giáp ấp Mũi Lớn 2

- Phía Nam giáp ấp Tam Tân

- Phía Tây giáp Phước Thạnh

- Phía Bắc giáp ấp Bàu Tre 1

Diện tích 352 ha. Dân số 3.211 người

Kinh tế chính là nông nghiệp

Ấp có 1 đền thờ liệt sĩ của xã, có 1 miếu bà và 4 nhà thờ họ trong đó có nhà thờ tôc họ Liêu, có 1 trường phổ thông và 2 trường mẫu giáo.

Trong hai cuộc chiến tranh có 95 liệt sĩ và 11 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Hiện nay ấp đang phấn đấu là ấp văn hóa.

Riêng ấp Chánh, xã Tân Thông Hội là nơi hậu duệ chi I đang sống trên đất ông tổ. Hiện nay vị trí của ấp như sau:

- Phía Đông giáp ấp Trung

- Phía Tây giáp ấp Trung

- Phía Nam giáp ấp Tiền

- Phía Bắc giáp Quốc lộ 22. Diện tích toàn ấp là 99,36 ha. Đa số nhân dân sống về nghề nông. Ấp có đình Tân Thông Hội xưa, nay được nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải xây mới lại hoàn toàn.

Đa số nhân dân theo đạo Phật.

Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ có 6 liệt sĩ, 4 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bà mẹ Việt Nam anh hùng Phan Thị Mun là mẹ của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải. Ấp Chánh liên tục là ấp văn hóa.

Hiện nay ấp nằm trong dự án xây dựng nông thôn mới của xã Tân Thông Hội, dự kiến xây dựng khu văn hóa của ấp và ấp Chánh cũng nằm trong dự án thí điểm mô hình nông thôn mới của ấp.

Bà con họ Liêu hai xã sẽ gắn bó hơn khi có gia phả này.

II. PHÁT TÍCH DÒNG HỌ

Ngày 26 tháng 3 năm 2011 được ủy Ban Nhân Dân xã Tân Thông Hội cho người đưa xuống nhà ông Liêu Văn Tén hậu duệ họ Liêu ở ấp Chánh. Ông cho biết họ Liêu không có gia phả cổ, không có di chúc, không có tư liệu nào cho biết nguồn gốc họ Liêu. Ông chỉ biết ông Liêu Văn Sanh, ông cố ông là người cao tuổi nhất của họ Liêu gốc ở ấp Chánh còn trên nữa thì ông không biết nhưng ông cho biết ông có họ hàng với họ Liêu ở xã Tân An Hội và có nhà thờ họ Liêu trên đó.

Ông đưa chúng tôi đến ấp Mũi Lớn 1, xã Tân An Hội để gặp thêm họ hàng và nghiên cứu gia phả trên đó.

Ở ấp Mũi Lớn 1, ông Liêu Văn Tài con trai út của ông Liêu Văn Túa (đời V) tộc trưởng họ Liêu ở ấp Mũi Lớn 1 – người đứng ra lập “sổ Phú ý gia phả” cho chi của ông. Chính ông Túa cũng là người huy động con cháu họ Liêu lập nhà thờ họ trên đất tổ.

Ông Liêu Văn Túa đi họp, con trai ông cho chúng tôi “sổ Phú ý” và đưa chúng tôi ra đồng mả Bàu Gỏ, ấp Mũi Lớn 1 để biết mộ ông tổ họ Liêu.

Đây là hai ngôi mộ song hồn, mới xây. Mộ bia có tên ông Tổ là Liêu Văn Thuột và bà Tổ là Huỳnh Thị Lỏi (mộ cũ bằng đá ong có bia chữ nho bị phá bỏ). Không có năm sinh năm mất chỉ có ngày giỗ.

Nghiên cứu “sổ Phú ý” chúng tôi chỉ biết hậu duệ của ông Liêu Văn Thuột đến đời thứ 7 không có hành trạng từng người. Chúng tôi không thấy có mối liên hệ với họ Liêu của ấp Chánh, xã Tân Thông Hội.

Ngày 2 tháng 4 năm 2011 chúng tôi gặp ông Liêu Văn Túa tại đình Tân Thông Hội. Ông cho biết ông Liêu Văn Thuột là ông cố của ông. Ông Liêu Văn Thuột là em ông Sơ của ông Liêu Văn Tén. Ông Liêu Văn Thuột và anh (không rõ tên) từ Trung Quốc sang lập nghiệp tại Việt Nam. Không rõ vì lý do gì hai anh em bỏ quê hương sang khẩn hoang định cư tại làng Tân An Hội, tổng Long Tuy Hạ, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định nay là xã Tân An Hội và xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

Hiện nay trong họ tộc không có người cao tuổi hơn hai anh em ông Liêu Văn Thuột. Do vậy chúng tôi tạm xếp anh em ông Liêu Văn Thuột là hai ông Tổ đời một cao nhất của họ Liêu, có cha mẹ ở Trung Quốc. Hai ông lập gia đình là người Nam Bộ.

Người anh khẩn hoang và lập nghiệp tại thôn Tân Thông. Hiện nay còn hậu duệ ở ấp Chánh, xã Tân Thông Hội, con cháu không rõ mộ của ông bà.

Người em là Liêu Văn Thuột vợ ông là bà Huỳnh Thị Lỏi khẩn hoang hơn 10 mẫu đất lập nghiệp tại ấp Mũi Lớn. Mồ mả của ông bà và đất đai con cháu ông hiện còn thừa kế đến nay tại ấp Mũi Lớn 1, xã Tân An Hội.

Hiện nay ông Liêu Văn Túa – hậu duệ đời thứ V của ông Liêu Văn Thuột cho biết hai anh em ông Tổ của ông từ Trung Quốc sang Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX nhưng không rõ cụ thể năm nào. Theo quy ước về cách tính tuổi của Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả cứ mỗi thế hệ cách nhau 25 năm và mỗi con cách nhau 2 tuổi.

Căn cứ vào năm sinh của ông Liêu Văn Tề (đời IV) con cả sinh năm 1900 thì năm sinh của cha ông là Liêu Văn Phò (đời III) khoảng 1900 – 25 = 1865. Ông Phò là con một. Vậy năm sinh của ông Liêu Văn Sanh (đời II) khoảng 1865 – 25 = 1840. Ông Liêu Văn Sanh cũng là con một. Do đó năm sinh của ông Tổ khoảng 1840 – 25 = 1815 và năm sinh của ông em Liêu Văn Thuột độ chừng năm 1815 + 2 = 1817.

Để đến được Việt Nam, ông anh ít nhất phải 20 tuổi và ông em 18 tuổi mới có thể lao động kiếm sống được.

Thời điểm này nước ta dưới sự cai trị của vua Minh Mạng, nước ta còn chủ quyền nhưng chính sách bế môn tỏa cảng, không giao thiệp với các nước phương Tây, việc xử tội Lê Văn Duyệt, tiêu diệt Lê Văn Khôi có ảnh hưởng đến Tân Thông Hội, Tân An Hội. Đặc biệt là việc cấm dân theo đạo Thiên chúa và giết các giáo sĩ phương Tây làm cho nhân dân lo sợ, các nước phương Tây nhất là nước Pháp căm tức tạo mầm mống cho Pháp xâm lược Việt Nam vào thời Tự Đức.

Hai anh em họ Liêu đến nước ta vì lý do gì? Đi bằng cách nào, con cháu họ Liêu hiện nay không ai biết được.

Vào đầu thế kỷ XIX ở Trung Quốc có nhiều biến động chính trị đi đôi với sự có mặt của các nước phương Tây tại Trung Quốc nhất là sau cuộc chiến tranh nha phiến, khởi nghĩa Thái Bình và việc “bát quốc liên quân” xâu xé Trung Quốc. Tình hình chính trị này ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân Trung Quốc nên họ tìm cách ra nước ngoài để làm ăn sinh sống. Hai anh em ông Tổ đến Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử này chăng ? Hai ông đến Việt Nam định cư tại vùng đất Tân Thông Hội, lấy vợ và lập ra hai chi:

• Chi thứ nhất: Trưởng chi là ông Tổ (khuyết danh). Ông lấy vợ và có 1 con trai truyền nối đến nay là đời thứ tám. Hậu duệ ông đến nay còn ở ấp Chánh, xã Tân Thông Hội và các xã lân cận, một số còn thừa kế đất ông trong ấp Chánh nhưng không nhiều.

• Chi thứ hai: Trưởng chi là ông Liêu Văn Thuột. Ông khẩn hơn 10 mẫu đất lấy vợ họ Huỳnh người Nam Bộ (Huỳnh Thị Lỏi) có 11 người con trong đó có 6 con trai. Các ông con trai đời II lập gia đình ở Tân An Hội, các xã khác trong huyện và các tỉnh lân cận. Chi này quy mô rất lớn song gia phả này chỉ lập từ trực hệ người con trai thứ 10 là ông Liêu Văn Rốt, còn các chi khác sẽ tiếp tục dựng gia phả để có một bộ gia phả toàn tộc họ Liêu.

TÓM TẮT SƠ ĐỒ 2 CHI HỌ LIÊU:

 III. HÔN NHÂN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CHI I VÀ TRỰC HỆ ÔNG LIÊU VĂN RỐT

Hôn nhân tạo ra gia đình là nơi con người được sinh ra và lớn lên để có các thế hệ nối tiếp tạo ra dòng họ. 

Ngoại trừ một số rất ít người trong họ tộc, con cháu không biết quan hệ hôn nhân với các họ nào, nhưng đại đa số họ Liêu cưới dâu, chọn rể với nhiều nhất là họ Nguyễn (40 cuộc), họ Phạm (10 cuộc), họ Huỳnh (13 cuộc), họ Lê (10 cuộc), họ Phan (6 cuộc), họ Trần (3 cuộc), họ Võ (2 cuộc), họ Bùi (2 cuộc) và các họ Mai, Hồ, Giang, Hứa, Lâm, Lưu, Đào, Hà là những họ có văn hóa, đạo đức tốt, yêu nước và có tinh thần cách mạng.

Hôn nhân các đời I, II, III, IV là do cha mẹ định đoạt theo lễ giáo phong kiến của những gia đình bình dân. Việc kén dâu chọn rể trên cơ sở cần mẫn, siêng năng, hiền hậu, nết na, không yêu cầu môn đang hộ đối. Đời V, VI hôn nhân trên cở sở tình yêu và định hướng của cha mẹ. Do quen biết nhau trong lao động, trong việc học tập rồi tiến tới hôn nhân nhưng cha mẹ vẫn có vai trò quan trọng trong việc cưới hỏi. 

Phần lớn các cô dâu, chú rể họ Liêu ở trong cùng tổ quán Tân An Hội và Tân Thông Hội và các xã lân cận như Tân Phú Trung, An Nhơn Tây, Xóm Chùa, Bàu Tre. Đã có người theo cách mạng, đi tập kết ra Bắc năm 1954 lấy vợ miền Bắc. Cũng có con gái lấy chồng xa như Long An, Bạc Liêu, Bến Tre. Đời VI con trai, con gái đi làm công nhân, xí nghiệp quen biết nhau nên lấy vợ lấy chồng xa quê như: Vĩnh Long, Gò Công, Tây Ninh xa hơn như ở Quảng Ngãi, Nghệ An. Đặc biệt không có kết hôn với người cùng họ Liêu.

• Chi một: số lượng toàn chi ít, quy mô nhỏ. Do đời II, III mỗi thế hệ 1 người con trai duy nhất. 

Đời IV số lượng tăng lên được 3 người.

Đời V số lượng phát triển đến 15 người.

Đời VI, VII số lượng ít lại do hạn chế sinh đẻ.

Đời VIII chỉ vài gia đình có con, còn nhiều người độc thân, số lượng có tăng nếu chi I lập gia đình hết.

Tổng cộng toàn chi I là 52 người, chết nhỏ 2 còn lại 50 người gồm: 25 trai và 25 gái. Đã qua đời hết 11. Hiện còn 36 người (18 trai và 18 gái).

• Chi II: ông Tổ chi II là ông Liêu Văn Thuột. Ông Tổ có đến 11 người con (6 trai và 5 gái). Gia phả này chỉ dựng trực hệ người con trai thứ 10 của ông Tổ là Liêu Văn Rốt. Khi có điều kiện sẽ dựng đầy đủ hết chi II.

Số lượng của tiểu chi này đông hơn cả chi I. Phát triển đông đảo nhất là đời thứ V, có đến 72 người chết nhỏ 2 còn lại 31 gái và 39 trai. 

Đời 6 số lượng tụt xuống chỉ còn 63 người là do sinh đẻ có kế hoạch.

Đời VII chỉ có 10 người, chưa phát triển đầy đủ. 

Toàn tiểu chi của ông Liêu Văn Rốt có 185 người, chết nhỏ 2, còn lại 183 người. Hiện còn sinh tiền là 143 người trong đó con trai, con gái xấp xỉ nhau.

Nếu khảo sát hết toàn số lượng chi II thì quy mô dòng họ Liêu tương đối lớn.

Con trai họ Liêu lấy vợ biết lo việc nhà, việc ruộng nương, rẫy bái, đan rỗ, rá, bồ, cót, biết bắt cá tôm, nuôi dạy con cái, biết phụng thờ tổ tiên nhà chồng, lấy gia đình chồng làm gia đình mình. Tiêu biểu là bà Lê Thị Nỉ vợ ông Liêu Văn Bồng (đời III), phụ chồng lo việc ruộng nương, trồng đậu phộng, thuốc lá, đươn rỗ rá chở bằng xe bò xuống Suối Cụt hoặc xuống Chợ Lớn để bán. Ngoài ra bà còn nuôi 6 người con, có 4 con trai nối dỏi tông đường nhà chồng.

Các cô dâu cũng biết thủ tiết thờ chồng như bà Đỗ Thị Chiện (vợ ông Liêu Văn Niệm, chồng bị Tây bắn, bà ở vậy nuôi con trên 20 năm. Bà Phạm Thị Gái vợ ông Liêu Văn Lộc. Ông Lộc tập kết ra Bắc, bệnh qua đời năm 1978, bà không tái giá, ở vậy nuôi con cho đến nay trên 30 năm. Con gái họ Liêu lấy chồng coi quê chồng là quê mình, cần cù lao động nuôi dạy con tốt, ủng hộ chồng con là cách mạng, biết phụng thờ tổ tiên nhà chồng, chồng chết ở vậy nuôi con, không bước thêm bước nữa. Tiêu biểu là bà Liêu Thị Diễm vợ ông Nguyễn Văn Dợt. Ông bị Tây bắn năm 1950, bà thay chồng nuôi dạy con đến năm 1985 mới qua đời. Bà Liêu Thị Thảnh, chồng mất tích bà mới có thai con trai mấy tháng. Năm 1957 bà sinh con và nuôi con khôn lớn cho đến nay là 34 năm, bà vẫn ở vậy.

Các chú rể là những người rể thảo, biết quan tâm lo lắng cho gia đình bên vợ.

Con trai, con gái, dâu rể họ Liêu có được những tính tốt như vậy là nhờ sự gia đình của gia đình họ Liêu, biết kính trên nhường dưới, hiếu thảo với ông bà cha mẹ… biết chọn dâu rể trong những dòng họ tốt. Đó là những nét đẹp văn hóa của họ Liêu cần được gìn giữ.

IV. HẬU DUỆ HỌ LIÊU VỚI TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG

Sự hiện diện của hai ông Tổ đời I và sự trưởng thành của đời II, III vào quá trình suy yếu của các triều đại phong kiến nhà Nguyễn dẫn đến nước ta bị thực dân Pháp xâm lược (1835 – 1910). Năm 1858 Pháp và Tây Ban Nha bắn vào cửa bể Đà Nẳng mở đầu cho Pháp xâm lược Việt Nam. Nhân dân Nam Bộ đứng lên chống Pháp nhưng rồi triều đình ký hòa ước Nhâm Tuất 1862 được ký giữa Pháp và triều đình Huế thì ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường đã mất vào tay thực dân Pháp. Năm 1884 theo hòa ước Patenôtre thì nước ta mất chủ quyền. Miền Nam theo chế độ thuộc địa. Miền Bắc và Trung theo chế độ bảo hộ của thực dân. Triều đình Huế chỉ là bù nhìn.

Thực dân Pháp bắt đầu khai thác thuộc địa, chúng vơ vét bóc lột tài nguyên, nhân lực, tăng nhiều thứ thuế má nặng nề vô lý, thuế thân làm cho nhân dân điêu đứng. Việc tăng cường kiểm soát bắt bớ giết hại người yêu nước và nhân dân vô tội. Đời I, II, III, IV của họ Liêu cùng các họ khác là những nạn nhân của chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Người có chút ít đất cũng không tránh khỏi cảnh sống tối tăm của cuộc đời nô lệ.

Mạng sống của nhân dân cũng bị xem nhẹ. Con rể họ Liêu cũng bị chúng giết trong những trận thảm sát rồi thủ tiêu xác như ông Liêu Văn Niệm, Liêu Văn Phả, ông Nguyễn Văn Dợt chồng bà Liêu Thị Diễm, ông Nguyễn Văn Xáng chồng bà Liêu Thị Thiêm, ông Huỳnh Văn Dử chồng bà Liêu Thị Dúng đã bị Tây bắn cùng một lúc 30 người dân vô tội trong làng. Ngoài việc giết hại nhân dân, chúng còn bắt dân thuộc địa đi lính chết thay cho chúng ở Chiến tranh Thế giới thứ II (1939 – 1945). Ông Liêu Văn Nguyền thay anh em trong gia đình, bị chúng bắt xuống tàu đưa sang Châu Âu đánh phát xít. Ông cảm thấy sợ hải, nhục nhã nên trốn dưới gầm tàu định chờ cơ hội trốn về quê hương nhưng đã chết ngộp dưới hầm tàu, vĩnh viển không bao giờ về được quê hương.

Nhiều cuộc khởi nghĩa của sĩ phu nổi lên được nhân dân đứng vào hàng ngũ để chống Pháp.

Từ khi có Đảng con cháu họ Liêu đời IV, V trưởng thành đứng vào hàng ngũ của Đảng để đánh thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ.

Ông Liêu Văn Rở (chi I, đời V) chống Pháp, nay con trai là Liêu Văn Tuấn là đảng viên, Chánh văn phòng Huyện ủy huyện Củ Chi. Ông Liêu Văn Phần làm giao liên hai thời kỳ kháng chiến. Ông Liêu Văn Lộc tham gia chống pháp. Năm 1954 tập kết ra Bắc. Liêu Văn Thận con ông Liêu Văn Phần là liệt sĩ chống Mỹ. Ông Liêu Văn Chẹt tham gia chống Mỹ trong ngành quân y, là liệt sĩ hy sinh năm 1968. Ông Liêu Văn Giả tham gia chống Mỹ, biệt động thành, Lữ đoàn 316, có huân chương kháng chiến hạng III. Bà Liêu Thị Xúp là dân quân tải đạn, tải thương thời chống Pháp, hy sinh được công nhận liệt sĩ. Liêu Văn Nguyễn đi bộ đội trong Sư đoàn 9, Quân khu 7, hy sinh trong Mặt trận Bình Giả, mất xác được công nhận liệt sĩ, Liêu Văn Thận, Liêu Văn Sấn là bộ đội chống Mỹ. Ông Liêu Văn Túa đi bộ đội chủ lực Miền mới 16 tuổi cho đến năm 1954 không được đi tập kết tiếp tục công tác tại địa phương cho đến miền Nam được giải phóng. Hiện nay ông vẫn công tác tại ấp, xã.

Ông Liêu Văn Triều và Liêu Văn Năm liệt sĩ chống Mỹ. 

Nguyễn Văn Cất con bà Liêu Thị Kiệp là liệt sĩ chống Mỹ.

Ông Nguyễn Văn Trưng chồng bà Liêu Thị Xạng đi bộ đội hy sinh được công nhận liệt sĩ. 

 Ông Nguyễn Văn Buổi chồng bà Liêu Thị Phê tham gia chống Pháp, hy sinh, con là Nguyễn Văn Kẻm tiếp tục chống Mỹ, cũng là liệt sĩ chống Mỹ.

Bà Liêu Thị Yêm cùng chồng là Hồ Văn Ứa suốt hai thời kỳ kháng chiến nuôi giấu cán bộ tiếp tế lương thực là gia đình có công cách mạng.

Nhìn chung qua hai thời kỳ kháng chiến, con cháu nội ngoại dâu, rể đều một lòng theo cách mạng vì quê hương đất nước. Người hoạt động tại địa phương cũng có người bị bắt quân dịch, tìm cách đi lính kiểng (ông Liêu Văn Phăng) có người làm nội tuyến, có người trốn quân dịch suốt đời (ông Liêu Văn Em) không ai theo giặc để sát hại nhân dân.

Có được như vậy là do trong dòng họ có sự giáo dục về truyền thống yêu nước, sự giáo dục của Đảng và có mối quan hệ hôn nhân với những dòng họ truyền thống cách mạng lâu đời trong huyện Củ Chi và vùng lân cận. Người Hoa Minh Hương biến thành người Việt là một quá trình chuyển hoá tốt đẹp.

V. ĐẶC ĐIỂM CỦA DÒNG HỌ

Hai anh em ông Tổ họ Liêu người Triều Châu từ Trung Quốc sang định cư lập nghiệp tại làng Tân An Hội, tổng Long Tuy Hạ, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định nay là xã Tân An Hội và Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền tử lưu tôn đến nay là đời thứ VII, VIII. Qua lao động và chiến đấu chống ngoại xâm, con cháu họ Liêu đã hình thành được nếp sống văn hóa đáng được gìn giữ và phát huy.

• Nét đẹp trong họ Liêu là tính cần cù trong lao động, có lối sống chân thật giản dị của người nông dân Nam Bộ.

Là người Hoa, nhưng lấy vợ Việt lại sống trong cộng đồng của lưu dân Việt, nên buổi đầu phải cùng nhau lao động cật lực đấu tranh với thiên nhiên, với thú dữ để khẩn đất, lập vườn, ruộng sống nghề ruộng rẫy. Con cháu tiếp tục truyền thống lao động của cha ông, làm ruộng, trồng đậu, thuốc lá, trồng tre, trúc quanh nhà để đan rổ, rá, bồ, cót, nuôi gia súc heo, bò, gà, vịt, bắt cá tôm không lúc ngơi tay. Đặc biệt con cháu ở Tân An Hội đã thành thạo nghề thủ công, đan rổ rá. Có người chuyên sống về nghề này, làm thật nhiều bỏ mối ở Chợ Lớn, Suối sâu, Suối Cụt.

Khi con cháu đông lên, đất đai ít, có người phải làm thuê, làm mướn hoặc tảo tần buôn gánh bán bưng để kiếm sống. Đời V, VI đất nước được giải phóng trong quá trình đô thị hóa, đông đảo con cháu họ Liêu ra làm công nhân, thợ hồ, thợ đồng, thợ hàn … có người làm thợ may, thợ uốn tóc. Người có điều kiện học hành cao thì làm giáo viên, cán bộ công nhân viên nhà nước, cán bộ ngành y tế… Tất cả đều có công ăn việc làm chính đáng, không ai lười lao động, không ai làm gì có hại đến danh dự dòng họ hay xã hội. Đó là truyền thống tốt đẹp của dòng họ đang được trân trọng.

• Một đặc điểm nổi bật là tinh thần cách mạng. Con cháu họ Liêu được khảo sát trong gia phả này, dù chưa đầy đủ toàn dòng họ nhưng đông đảo con cháu họ Liêu dâu, rể, cháu nội, ngoại đều có tham gia cách mạng. Người hoạt động tại địa phương, người gia nhập lực lượng vũ trang đánh giặc, người nuôi giấu tiếp tế lương thực, người làm dân quân tải đạn. Đã có người hy sinh cho tổ quốc khi tuổi còn thanh xuân, có người đã mất xác... Hiện nay có người tuổi đã cao vẫn không mệt mõi trong công tác tại địa phương như ông Liêu Văn Túa. Cũng có người hiện nay có chức vụ trong quân đội như ông Liêu Văn Dũng làm Phó Tham mưu trưởng Sư đoàn 5, Quân Khu 4 đóng ở Tây Ninh. Liêu Văn Hy Thượng tá Tiểu đoàn Quân báo thuộc Quân Khu 7. Trong hai cuộc kháng chiến đã có 10 liệt sĩ, 9 đảng viên. Con cháu có quyền tự hào mình là công dân Việt Nam cũng đã góp phần trong việc bảo vệ quê hương và tiếp tục xây dựng đất nước, làm vinh danh dòng họ.

• Nét đẹp văn hóa nữa của dòng họ là việc phụng thờ tổ tiên. Nhà nào cũng có bàn thờ gia tiên để thờ tổ tiên gia đình mình. Việc giỗ quảy, việc chăm sóc mồ mả mỗi gia đình đều có phân công và thực hiện nghiêm túc. Điểm đáng quý nữa là việc chung sức xây nhà thờ họ tại ấp Mũi Lớn 1, xã Tân An Hội để thờ ông tổ họ Liêu : Liêu Văn Thuột. Nhà thờ họ do con cháu họ Liêu trực hệ ông Liêu Văn Rốt nhưng cũng quy tụ được con cháu trong cả dòng họ xa gần vào ngày 25/5 Âl để giỗ tổ, đã lập “sổ Phú ý” và nay thì lập gia phả cho chi I và tiểu chi ông Liêu Văn Rốt.

Riêng chi I: con cháu không biết mộ ông bà tổ đời I nơi nào để chăm sóc và giỗ tổ. Đó là nổi xót của con cháu chi này.

Đây là những ưu điểm, con cháu cần gìn giữ và phát huy.

VI. XÂY DỰNG DÒNG HỌ TRONG TƯƠNG LAI

Bên cạnh những ưu điểm, họ Liêu cũng cần quan tâm xây dựng tổ chức khuyến học, khuyến tài, khuyến nghiệp để giúp con cháu có điều kiện học được và học cao hơn bởi vì còn nhiều gia đình khó khăn chưa thể cho con được tiếp tục học. Nên gây quỹ khuyến học, mỗi năm đến ngày giỗ tập họp trẻ con hiếu học hoặc học giỏi để trao học bổng hoặc khen thưởng những cháu học giỏi, khuyến khích các cháu học cao hơn.

Họ Liêu mặc dù ai cũng lao động để kiếm sống nhưng cũng có những người việc kiếm sống còn bấp bênh, cần được dòng họ giúp đỡ.

Cũng cần tổ chức thăm hỏi lúc ốm đau, chúc thọ những người cao tuổi để thắt chặt tình đoàn kết nhau trong họ, gắn bó nhau giữa hai chi.

Chi thứ II của họ Liêu có quy mô rất lớn, gia phả này chỉ lập trực hệ ông Liêu Văn Rốt. Bà con trong họ cũng nên phổ biến gia phả này để khuyến khích toàn dòng họ lập được bộ gia phả hoàn chỉnh để dòng họ biết được lịch sử của họ mình.

Dân giàu nước mạnh, dòng họ trường tồn thì gia đình hạnh phúc.